Phim không có những cuộc trình diễn cầu
kỳ điệu nghệ về góc quay - động tác máy - cỡ cảnh, chuyện phim chỉ xoay quanh
những mẩu đời thường quen thuộc thậm chí nhàm chán, song “Quán Kỳ Nam” đã tạo nên một không gian sống
chân thực và nhiễm cảm của Sài Gòn thời bao cấp khốn khó mà nhiều thế hệ người
có thể tìm thấy mình trong đó…
MỪNG VÀ TIẾC CHO PHIM “QUÁN KỲ NAM”
MAI AN NGUYỄN
ANH TUẤN
Câu chuyện phim giản dị diễn ra ở một
khu chung cư cũ ở Sài Gòn vào thập niên 1980. Hai nhân vật chính: 1. Kỳ Nam,
nguyên nữ sinh trường Tây và là vợ góa của một sĩ quan tâm lý chiến quân đội
VNCH, từng nổi tiếng trên báo chí và truyền hình về tài dạy nữ công gia chánh.
Sau 1975, trong căn bếp nhỏ tại Chung cư, Kỳ Nam sinh sống bằng việc nấu cơm
tháng và có lúc nấu cả cỗ cưới; 2. Khang - người thuê nhà mới, một chàng trai
đang nhận dịch lại tác phẩm “Hoàng tử bé” của nhà văn phi công Pháp
Saint–Exupéry, sau bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng đã xuất bản tại Sài Gòn trước
1975…
Giữa những bề bộn đời sống, vượt lên
tâm lý thóc mách, đố kỵ, ghen ăn tức ở của hàng xóm, Kỳ Nam và Khang đã đến với
nhau trong sự đồng cảm thầm lặng mà sâu sắc – một thứ tình cảm cao hơn tình yêu
trai gái thông thường…
Phim
không có những cuộc trình diễn cầu kỳ điệu nghệ về góc quay - động tác máy - cỡ
cảnh, chuyện phim chỉ xoay quanh những mẩu đời thường quen thuộc thậm chí nhàm
chán, song “Quán Kỳ Nam” đã tạo nên một không gian sống chân thực và nhiễm cảm của
Sài Gòn thời bao cấp khốn khó mà nhiều thế hệ người có thể tìm thấy mình trong
đó…
Chất trí thức trong phim khá rõ, tâm
lý nhân vật được triển khai một cách khá tinh tế qua lời thoại, diễn xuất, đạo
cụ mang ý nghĩa biểu tượng, qua đường dây câu chuyện có nhiều nhân vật phụ tưởng
rối rắm rời rạc song lại có gắn kết nội tại – theo khuynh hướng tiểu thuyết-điện
ảnh (ciné-roman) trong văn học Pháp nửa
sau thế kỷ XX mà ở nước ta người tiên phong là đạo diễn Đặng Nhật Minh với tập
truyện phim Hoa Nhài…
Trong Quán Kỳ Nam, đài từ nhân vật khá chuẩn. Dàn diễn viên từ chính, thứ
chính đến phụ đều thể hiện vai một cách tự nhiên, chinh phục được cả những khán
giả khó tính nhất… Chất liệu phim nhựa kinh điển cũng góp phần tạo ra tông màu
và độ nét luôn có chất douce (êm dịu)
trong mọi luồng ánh sáng góp phần tạo nên sức ám ảnh kỳ lạ của Nàng Tiên thứ Bảy
suốt hơn thế kỷ qua trên thế giới mà Kỹ thuật số (KTS) hiện đại nhất cũng chịu
thua!* Nếu những khán giả quen và thích loại phim có những hình ảnh rực rỡ nét
căng, có kịch tính xung đột mạnh, có tiết tấu nhanh, có những cú sốc tâm lý, có
lời la hét tranh luận hay dạy dỗ đến kịch kim thu thanh của nhân vật tựa uống
thuốc doping… thì chắc chắn sẽ thấy phim này Nhạt, Nhàm, Loãng…
Dễ hiểu vì sao bộ phim đã được không
ít cây bút có uy tín trong Nam ngoài Bắc trân trọng, khen ngợi hết lời. Tôi
hoàn toàn nhất trí với những đánh giá, nhận xét đó và vô cùng cảm phục, kính trọng
thái độ công tâm của người viết phê bình trước lao động nghệ thuật nghiêm túc
nhiều sáng tạo của những người làm bộ phim này. Ở đây, với tư cách là một khán
giả đang làm nghề và có tham gia vào công việc đào tạo nghề, tôi chỉ xin có đôi
trăn trở nuối tiếc với Quán Kỳ Nam,
tuy có thể là rất chủ quan song chắc có chút ý nghĩa nào đó với những người làm
phim Việt trẻ hôm nay.
Về kịch bản – scenario film, thấy rõ
là của một tác giả có nghề, và dám dũng cảm đi trực diện vào một đề tài hết sức
“nhạy cảm” chưa từng xuất hiện trên phim ảnh: nỗi đau con lai và nỗi đau vượt
biên, cùng đó là những bối cảnh & câu chuyện tái dựng bữa tiệc sinh nhật bị
công an phường lập biên bản, viên sĩ quan cải tạo không biết bao giờ trở về,
ông già tư sản bị tịch biên tài sản, đứa con lai bị kỳ thị - bị mua bán, những
cuộc “tra tấn” bằng tuyên truyền loa phường, lời cảnh báo của giám đốc xuất bản
về việc quan hệ với những đối tượng “không trong sạch”, những người bỏ xác trên
biển khi giấc mơ vượt biên sang Thế giới Tự do không thành, chuyện đổi tiền,
chuyện gửi gắm cho “con ông cháu cha”…
Để được duyệt làm phim và phát hành,
các nhà làm phim đã buộc phải làm “nhạt” đi, làm “chìm” đi những yếu tố chính
trị - xã hội vốn nổi cộm hàng chục năm nay trong cả bên Thắng cuộc lẫn bên Thua
cuộc; chính bởi vậy, nhân vật trọng tâm là Kỳ Nam buộc phải “hy sinh” những bi
kịch nội tâm giằng xé đau đớn cần được miêu tả để khỏi trở thành một “cái bóng”
của nhân vật như hiện trạng trong phim!
Tôi thấy ngậm ngùi cho nhân vật và các nhà làm
phim khi một nhân vật cần có một sức nặng tâm lý “nặng đô” như vậy, một người
thất cơ lỡ vận phải chấp nhận mất mát bằng cách nén lòng xuống tận đáy để bình
thản sống, chờ đợi, hy vọng và thầm yêu, mà lại chỉ xuất hiện từ đầu tới cuối
phim hầu như là một cái cớ để nhân vật Khang tìm chỗ dựa cho ước mơ, khát vọng,
đồng cảm của anh…
Cái “chừng mực” trong nghệ thuật biểu
hiện ở đây được nhiều lời khen ngợi chân thành hóa ra lại thành sự “chơi vơi”,
sự hẫng hụt, sự “chưa tới” của một hình tượng điện ảnh chứa nhiều tham vọng tốt
đẹp của người làm phim! Bởi vậy, sự “cảm hóa” của nhân vật bởi Tình người được
thi vị hóa và bay bổng thêm qua các trang sách dịch văn học thiếu nhi kinh điển
lại biến thành sự “thêm muối thêm mắm” cho dậy mùi chứ khó có thể lắng sâu vào
đáy số phận nhân vật và lay động tâm hồn người xem một cách thực sự! Cuối phim
mới có cảnh rất quan trọng là Kỳ Nam ngôi trên bãi biển, thắp hương và cùng con
trai và Khang tưởng ngóng về những người đã bỏ mạng oan ức – trong đó có một
người con trai của Kỳ Nam; song cảnh này, vì nằm trong ý đồ “dìm hàng” như đã
nói, nên đã trở nên vá víu, lạc lõng, bật ra khỏi bộ phim một cách oan uổng!
Nhân vật Khang cũng chịu một số phận
tương tự trong hành trình nghệ thuật phim ảnh: Anh chàng chỉ biết đến sách vở,
mang nhiều nét của Chúa Cứu thế hay nhân vật Hoàng thân Mưskin của Dostoyevsky
cùng diễn xuất nổi bật hơn hẳn diễn viên đóng vai Kỳ Nam, lẽ ra sẽ là một nhân
vật có khả năng ám ảnh và sức sống lâu bền khi người làm phim dường muốn tạo ra
câu chuyện Cổ tích giữa đời bề bộn sắt thép máu lửa, nhưng buồn thay, “lý lịch
tâm lý” của anh vốn đã mỏng manh, lại gắn với “cái bóng” Kỳ Nam nên anh vô tình
trở thành sự “minh họa” – dù là “minh họa” một cách khéo léo – cho ý đồ nghệ
thuật mà nền tảng đời sống - tư tưởng quan trọng của toàn phim bị bào mòn bởi
kiểm duyệt và tự kiểm duyệt!
Những triết lý được “lẩy” ra từ cuốn
sách dịch nọ và sách vở khác đưa vào các câu thoại, tuy có phần gượng gạo, song
cũng coi là tạm được – nhất là khi chú bé lai lần đầu được đọc sách qua bản thảo
dịch một cách say mê và tìm thấy trong mơ ước của nhân vật Hoàng tử bé sự hứa hẹn
giúp số phận chú bớt hẩm hiu. Nhưng tôi thiển nghĩ, cái cần khai thác hơn cả ở
cuốn sách đó chính là số phận của dịch giả thứ nhất - thi sĩ Bùi Giáng, ông cần
trở thành một “nhân vật” không xuất hiện để tạo ra cái nền tri thức đích đáng
và cầu nối đồng điệu giữa hai nhân vật Kỳ Nam – Khang về tình yêu văn chương
nghệ thuật và lòng trắc ẩn với cái đẹp, với tình người trong gian nan thử
thách.
Việc cho nhân vật Bùi Giáng xuất hiện
giữa chợ, với hình dáng kỳ dị đến thảm hại và chiếc còi trên môi, dù là có thực,
song ở phim lại hóa ra một bức tranh bi hài đặt không đúng chỗ, phá hỏng mỹ cảm
chung của toàn phim mà người làm phim đã có nhiều cố gắng trau chuốt…
Về âm nhạc của bộ phim, ngoài một,
hai bài hát cũ có khả năng làm nền cho tâm trạng khá hữu ích, thì toàn bộ nhạc
phim phải nói thẳng là rất yếu kém! Có tác giả đã so sánh Quán Kỳ Nam với bộ phim In
the Mood for Love (Tâm trạng khi yêu) của đạo diễn Hồng Kông Vương Gia Vệ,
còn tôi cho rằng, chỉ riêng phần nhạc phim thôi đã thấy Quán Kỳ Nam và Tâm trạng khi
yêu là hai đẳng cấp nghệ thuật khác biệt rồi!
Nhưng, nói đi nói lại, Quán Kỳ Nam
vẫn là một bộ phim đáng xem nhất hiện nay bởi, có nhiều sáng tạo nghệ
thuật khá kỳ công của ê-kip làm phim, đặt được một mốc mới đáng kể cho nền Điện
ảnh Việt đang nỗ lực để sớm có mặt trên Bản đồ Điện ảnh thế giới!
__________
* Nói thêm chút ít về phim nhựa: Mấy năm nay, điện ảnh toàn thế giới đã chuyển sang quay bằng Kỹ thuật số, chi phí sản xuất và thời gian sản xuất phim giảm đáng kể! Chỉ một số ít đạo diễn của vài nền Điện ảnh lớn mới dám quay bằng phim nhựa. Cũng có một số đạo diễn nước ngoài sau khi phim mình đã quay bằng KTS đã thuyết phục được nhà sản xuất cho chuyển ngược bộ phim đã hoàn thiện sang phim positif – dương bản để phát hành. Quán Kỳ Nam được quay bằng phim nhựa lúc này chứng tỏ người làm phim và nhà sản xuất hết sức “chịu chơi”, hiểu được ý nghĩa của những cảnh quay trong mối quan hệ với Kỹ thuật truyền thống theo kiểu quảng bá của hãng máy ảnh Leica danh tiếng của Đức: “Nếu bạn dùng đến Leica thì trước hết đừng nghĩ mình có đủ tiền chưa mà xem mình có đủ tư cách xử dụng nó hay không?”

