Viết về cái bóng của mình, ở phương Đông, Lý Bạch là người sớm đưa vào thơ rất thành công với bài “Nguyệt hạ độc chước” (Uống rượu dưới trăng) tả cảnh nhà thơ một mình uống rượu dưới trăng. Một mình mà có ba nhân vật: chủ thể trữ tình, bóng và trăng.
TRIẾT LÝ VỀ
CÁI BÓNG
NGUYỄN
THANH TÚ
Cổ tích Việt
Nam có truyện “Hổ và thỏ” mang tính ngụ ngôn giáo huấn bài học con người ta phải
biết tỉnh táo để nhận ra chân dung chính mình. Một con hổ to xác, hung ác bị
con thỏ lừa đến cái giếng. Hổ ta nhìn xuống thấy một con hổ dưới giếng. Hổ ta gầm
lên, con hổ dưới giếng cũng gầm lên. Tức mình, hổ ta nhảy xuống quyết xé xác kẻ
dám xâm phạm lãnh địa… Câu chuyện toát ra bài học khi đã vô mưu lại mất bình
tĩnh thì sẽ “chết mất xác”.
Thần thoại
Hy Lạp kể, chàng Narcissus là con trai của thần sông Cephissus và nữ thần
Liriope. Lớn lên Narcissus sở hữu một vẻ đẹp hiếm thấy, vượt xa tất cả các vị
thần thánh đẹp nhất của thế giới Ôlanhpơ. Một hình thể khỏe mạnh của lực sĩ, cặp
mắt sáng ngời, những lọn tóc xoăn vàng mơ màng óng ả rủ xuống vầng trán cao
kiêu hãnh, đôi môi hồng tươi như hoa nở, hàm răng lấp lóa như ngọc... Đẹp đến nỗi,
nữ thần Liriope lo sợ, sai người giấu tất cả gương soi trong nhà…
Lớn lên,
chàng đi ra ngoài thiên nhiên chơi bời, thăm thú. Ngày nọ, lang thang trong rừng,
đến bên một hồ nước trong vắt, chàng cúi xuống vốc nước định uống, bỗng sững lại.
Một hình bóng thần thánh lấp lóa lung linh dưới mặt nước. Định thần, chàng nhận
ra đó chính là mình. Sửng sốt. Bàng hoàng. Ngạc nhiên. Thần Zớt ơi, còn ai có vẻ
đẹp trên cả tuyệt vời thế này không? Một niềm tự hào ích kỷ, một niềm thỏa mãn
ngấm ngầm trong chàng cứ lớn dần lên...
Thần thánh
luôn tài năng và đẹp đẽ. Nhưng phẩm chất liên tài thì chưa hẳn. Như chàng
Narcissus kia, chỉ muốn một mình đẹp, không ai đẹp hơn. Thế nên bao thánh nữ
trong trắng và mỹ nữ nồng nàn đem lòng yêu, nhưng chàng đều cho qua, vì thấy họ,
nói như AQ của Lỗ Tấn là, “không xứng”. Kể cả người đẹp nhất Ôlanhpơ là Echo -
nữ thần Tiếng Vọng. Không ai xứng, thành ra dần dần Narcissus say mê chính bản
thân.
Ngày lại
ngày, chàng tìm đến hồ nước, cúi xuống chiêm ngưỡng cái bóng mình. Đắm đuối, mê
mẩn, quên mọi thứ, Narcissus cứ quỳ bên hồ... Chàng ghét những cơn gió làm mặt
nước xao động, cái bóng sẽ bị tan ra. Một làn gió thoảng đủ làm chàng sợ hãi.
Thảng thốt chàng kêu: “Narcissus… Narcissus…”. Ngay sau đó, âm vọng từ vách núi
thao thiết dội về: “Narcissus… Narcissus…”. Đó chính là tiếng của nữ thần Echo
bồi hồi khắc khoải đáp lại. Đừng mơ nhé. Chàng không yêu Echo. Thà chết. Dần dần,
chàng kiệt sức…
Câu chuyện
ấy ở trên đỉnh Ôlanhpơ - thế giới của thần thánh, rơi xuống trần gian, kết
thành châm ngôn luân lý “Tinh thần Narcissus” để con người nhắc nhở nhau: đã đẹp
rồi, giỏi rồi, có thành tựu rồi, được thừa nhận rồi, nhưng phải cố gắng vươn
lên phấn đấu để có thành tích mới. Tự thỏa mãn là chết. Như chàng Narcissus
kia, hoặc như AQ. Nghe nói, Lỗ Tấn khôn ngoan lấy một ít “tinh thần Narcissus”
“đắp” vào AQ…
Hình như
nhà văn Đan Mạch Andersen còn khôn ngoan hơn Lỗ Tấn, bởi trước đó ông đã viết một
ngụ ngôn có tên “Cái bóng”. Nhân vật chính là một nhà bác học đã có nhiều công
trình lớn, một hôm ông cho phép cái bóng rời khỏi mình đi chơi bời đây đó. Với
bản tính láu cá, ma lanh, cái bóng trở nên sang trọng và giàu có. Nó trở về và
bắt nhà bác học phải trở thành cái bóng của chính nó. Cuối cùng nó giết chết
ông chủ từng nuôi dưỡng nó.
Một bài học
bật ra: Dù là người giỏi giang đến mấy (như nhà bác học nọ) nhưng nếu không quản
lý, giáo dục cái tôi ích kỷ, tự mãn xấu xí, nó sẽ nổi loạn bắt mình làm nô lệ,
thậm chí giết chết chính bản thân mình. Hình như Andersen viết câu chuyện ấy
cho cả một số nhiều người tài (như nhà bác học nọ) nhưng sớm thỏa mãn với thành
tích, đã có 1, 2 tác phẩm, công trình, rồi “tắt ngấm”, hoặc có cũng chỉ là “ăn
mày quá khứ”, na ná cái cũ…
Viết về
cái bóng của mình, ở phương Đông, Lý Bạch là người sớm đưa vào thơ rất thành
công với bài “Nguyệt hạ độc chước” (Uống rượu dưới trăng) tả cảnh nhà thơ một
mình uống rượu dưới trăng. Một mình mà có ba nhân vật: chủ thể trữ tình; bóng;
trăng: “Có rượu không có bạn/ Một mình chuốc dưới hoa/ Cất chén mời trăng sáng/
Mình với bóng là ba/ Trăng đã không biết uống/ Bóng chỉ quấn theo ta/ Tạm cùng
trăng với bóng/ Chơi xuân cho kịp mà!/ Ta hát, trăng bồi hồi/ Ta múa, bóng rối
loạn/ Lúc tỉnh cùng nhau vui/ Say rồi đều phân tán/ Gắn bó cuộc vong tình/ Hẹn
nhau tít Vân Hán”.
Trôi theo
dòng thời gian hơn ngàn năm, thi phẩm cập bến bờ hiện đại, mà lại hiện đại hơn
cả hiện đại. Ở sự tưởng tượng, liên tưởng mới mẻ, phóng túng và phóng khoảng; ở
chất hài hước ít có ở hiện đại mà vẫn cổ điển, sâu sắc, cô đọng; đặt ra vấn đề
cô đơn “bản thể luận”; ở khuynh hướng sinh thái, giao hòa thiên nhiên vũ trụ mà
vẫn một cá tính ngạo nghễ…
Dưới góc
nhìn ngụ ngôn, bài thơ có hai câu rất sâu sắc: “Lúc tỉnh cùng nhau vui/ Say rồi
đều phân tán”. Đó là một triết lý: khi mình tỉnh táo, chỉ có bóng là trung
thành với mình nhất. Còn khi đã say thì “đều phân tán” cả. Tức mình không còn
là mình nữa.
Viết về chủ
đề “cái ghen đàn ông”, trong văn học trung đại Việt Nam có một “Người con gái
Nam Xương” nổi tiếng của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVII). Cái anh chàng Trương Sinh
nông nổi tin vào lời đứa con ba tuổi (Đản) là chỉ có đêm đến thì cha mới về, mẹ
đi thì cha đi, mẹ ngồi thì cha ngồi nên không bao giờ bế Đản. Vì trước đó
Trương Sinh phải đi lính trong khi đó vợ ở nhà có con.
Cái ghen
bóng ghen gió cứ ấm ức rồi ngày một lớn dần để rồi Trương Sinh mắng nhiếc người
vợ ngoan (Vũ Nương) những điều tệ hại nhất về phẩm tiết người phụ nữ. Nàng phải
tự tử... Trong cô đơn, trống vắng, vào một tối tê tái buồn trong ngôi nhà có
người vừa chết, Trương Sinh đi đi lại lại, bồn chồn, thằng Đản chợt hét toáng
lên: “Ba tôi đến kìa!”. Nó chỉ vào cái bóng Trương Sinh trên tường...
Sững sờ,
thảng thốt, bàng hoàng, chàng gục xuống như cái mầm ghen của thằng đàn ông nhỏ
nhen teo tóp thảm hại trước ánh sáng sự thật: những ngày chàng xa nhà, vợ lấy
bóng của mình nói với con về ba nó. Dân gian vẫn nói vợ chồng “như hình với
bóng”...Thế mà!!!
Cái bóng
luôn âm thầm và luôn hiện hình trên cái nền nào đó. Trong“Cung oán ngâm khúc”,
Nguyễn Gia Thiều “vẽ” bóng người cung nữ trên bức tường: “Bên tường thấp thoáng
bóng huỳnh” và bức vách: “Vách sương nghi ngút đèn xanh mờ mờ” rồi đặt trong
không gian cung cấm: “Trong cung quế âm thầm chiếc bóng/ Đêm năm canh trông
ngóng lần lần”. Nàng vật vờ trong cung, bóng nàng vật vờ trên vách: “Đêm năm
canh lần nương vách quế”. Chế độ nam quyền phong kiến ích kỷ đã giết chết đời
nàng: “Cái buồn này ai dễ giết nhau/ Giết nhau chẳng cái lưu cầu/ Giết nhau bằng
cái u sầu, độc chưa!".
Nếu Nguyễn
Gia Thiều “đối thoại với bóng” (chữ dùng của Đỗ Lai Thúy), thì Tản Đà cô đơn đến
mức “Nói chuyện với bóng” (tên bài thơ - 1932). Trong bối cảnh: “Phòng văn nửa
khép cánh thu/ Đèn văn một ngọn trông lù dù xanh/ Đứng lên, ngồi xuống một
mình/ Khối tình ai nặn, lửa tình ai khêu”. Bất ngờ có “người” xuất hiện: “Mập mờ
khi thấp, khi cao/ Trông ra chẳng biết ông nào lại chơi”.
Chẳng có
“ông” nào, đó là cái bóng của mình: “Ta ngồi khi Bóng cũng ngồi/ Ta đi, ta đứng,
Bóng thời cũng theo”. “Họ” nói chuyện với nhau hay một cuộc độc thoại nội tâm của
một con người: “Ngọn đèn khêu tỏ, đôi ta cùng ngồi/ Cùng nhau rãi một đôi nhời/
Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi Bóng nghe”. Bài thơ cho thấy một nỗi cô đơn, lạc lõng
đến cực điểm. Không còn ai để tâm sự, giãi bày. Chỉ “Một mình mình nói, một
mình mình nghe”.
Tố Hữu làm
thơ về anh bộ đội luôn trong xu hướng nâng hình tượng ngang tầm vũ trụ: “Rất đẹp
hình anh lúc nắng chiều/ Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo/ Núi không đè nổi vai
vươn tới/ Lá ngụy trang reo với gió đèo” ("Lên Tây Bắc" - 1948).
Trong không gian buổi chiều Tây Bắc có hai hình ảnh in hình bóng vào nhau: người
lính và núi non, đèo dốc. Đang hành quân vượt núi, nên anh lính trong tư thế “đỉnh
cao” (đỉnh dốc), vươn cao (vươn tới) để hòa nhập vào vũ trụ (reo với gió đèo).
Ở dưới
nhìn lên có cảm giác anh vừa nhập vào núi non, thân thương; vừa vượt lên núi
non, kỳ vĩ. Hình tượng “rất đẹp” cả về nghĩa thực, cả về nghĩa bóng: người lính
vượt qua mọi khó khăn để vươn tới lý tưởng chiến thắng. Vần “eo” vừa gợi ra cái
hiểm trở (cheo leo) vừa như mở ra một không gian mới, tầm nhìn mới (reo, đèo)
khi đã vượt qua cái “cheo leo” chòm núi. Cảm hứng về đối tượng miêu tả mang tầm
vũ trụ đã tạo ra những câu thơ vang vọng âm hưởng sử thi đậm tính huyền thoại.
Văn chương
hôm nay hình như lý tính hơn nên ít viết về cái bóng!?
Nguồn: Văn Nghệ Công An

