Cái bài viết 5 trang của Lê Lựu về phong trào thi đua, được báo Quân khu 3 đăng thành cái tin vẻn vẹn 27 chữ: “Lập thành tích chào mừng đại hội thi đua quyết thắng của Quân khu, đại đội 25 đoàn Nam Triệu tiêu diệt hơn 38 vạn con ruồi...”
Những năm
cuối đời, do tai biến nên nhà văn Lê Lựu đi lại phải có người dìu... Biết bệnh
tình của ông như vậy, nên khoảng cuối năm 2011, thấy báo chí loan tin nhà văn
Lê Lựu đang đôn đáo chạy xin tiền để xây nhà lưu niệm nhà thơ Phạm Tiến Duật,
tôi bán tin bán nghi, liền đến thăm ông để hỏi thực hư.
Lê Lựu khẳng
định đó là sự thật, công trình động thổ rồi, tại khuôn viên Hội văn nghệ Phú Thọ.
Kinh phí dự trù khoảng 1 tỉ, nhưng mới chạy được 300 triệu, nên còn phải chạy
tiếp…
Ông kể:
tròn 40 năm trước, Lê Lựu được điều động từ báo Quân khu Ba lên biên chế vào tạp
chí Văn nghệ Quân đội để “đi Bê”. Đầu năm 1972 ông vào đến tiền phương Đoàn
559, được giới thiệu về sinh hoạt ghép với chi bộ báo Chiến sĩ Trường Sơn của
Phạm Tiến Duật. Từ đó đến năm 1975, Lê Lựu cùng ăn, cùng ở, cùng đi công tác với
Phạm Tiến Duật. Vì thế, ông có rất nhiều kỷ niệm với nhà thơ Trường Sơn danh tiếng…
Chuyện bắt
đầu vui, tôi nói: “Đời văn của bác thì nhiều người đã viết. Nay bác kể chuyện
làm báo cho bọn em nghe với”. Nhà văn “Thời xa vắng” tủm tỉm: “Những kỷ niệm
làm báo của tôi trước khi vào Trường Sơn cũng gian truân lắm”…
Rồi ông chậm
rãi kể: Tôi xin đi bộ đội năm mới 17 tuổi. Hết hạn nghĩa vụ quân sự ở trung đoàn
50 của Quân khu 3, tôi được đơn vị giữ lại để đi học làm quản lý. Tôi vốn dốt
toán nên rất sợ làm quản lý, bèn xin làm anh nuôi. Đơn vị thấy tôi “trình bày
thật thà” như vậy, cộng với một vài biểu hiện năng khiếu tuyên truyền, thế là
cho lên làm nhân viên thư viện của Trung đoàn…
Được quản
lý cả một kho sách, tôi mặc sức đọc ngấu nghiễn suốt ngày đêm. Nhiều khi anh em
lên mượn sách, tôi cứ gật bừa không thèm ghi chép gì, vì còn bận… đọc sách. Kết
quả là sau 6 tháng làm nhân viên thư viện trung đoàn, tôi làm thất thoát 500 cuốn
sách.
Các thủ trưởng
cáu lắm, nhưng cũng thừa nhận tôi ham đọc, ham viết, nên tha; lại còn giao cho
tôi viết tin, bài cho bản tin thi đua của đơn vị và gửi đăng báo Quân khu…
Đều đặn
các buổi tối, tôi đọc bản tin thi đua bằng loa sắt tây cầm tay, ngồi trên chòi
canh của vệ binh mà phát. Thô sơ thế thôi, nhưng “tổ phát thanh” hào hứng lắm;
ngoài tin tức, đôi khi còn có cả thơ ca và gương người tốt, việc tốt…
Một lần,
nhà văn Xuân Thiều về trung đoàn công tác, tôi quyết có một cuộc ra mắt ông thật
ngoạn mục. Hôm đó, tôi hì hục viết một bài ca ngợi tác phong sâu sát của cán bộ
trung đoàn, với cái đầu đề rất kêu: “Cán bộ đoàn Nam Triệu rời bàn giấy bám lấy
thao trường”.
Tối hôm đó,
tôi vác loa lên đầu hồi nhà khách, chĩa vào cái cửa sổ phòng nghỉ của ông Xuân
Thiều mà phát.
Tôi đọc
xong, lại bảo một cậu trong tổ phát thanh đọc lại lần nữa, vì đây là bài báo viết
về cán bộ trung đoàn ta. Tất nhiên cái loa vẫn được chõ vào cửa sổ nhà khách…
Sáng hôm
sau, nhác thấy nhà văn xách chậu ra giếng là tôi nhót theo. Chờ cho nhà văn đánh
răng súc miệng xong, tôi “phỏng vấn” ngay: “Thủ trưởng ơi, tối qua thủ trưởng
thấy bài của em thế nào?”. Ông Xuân Thiều ngơ ngác: “Bài nào nhỉ?”. “Bài em đọc
trên loa tối qua đấy!” Nhà văn hồn nhiên: “Ồ, tối hôm qua mình mệt quá, đi ngủ
sớm”.
Không nản
chí, tôi vẫn tiếp tục viết bài gửi báo Quân khu 3, mặc dù đã ngót trăm tin bài
mà chưa có cái nào được đăng. Thế rồi công sức của tôi cũng được đáp đền. Ấy là
cái bài viết 5 trang của tôi về phong trào thi đua của đơn vị, được báo Quân
khu đăng thành cái tin vẻn vẹn 27 chữ: “Lập thành tích chào mừng đại hội thi đua
quyết thắng của Quân khu, đại đội 25 đoàn Nam Triệu tiêu diệt hơn 38 vạn con ruồi...”
Cái tin
bao diêm chỉ 27 chữ thôi nhưng tôi sướng ngây ngất, liền cắt mẩu tin cho vào vỏ
bao thuốc lá, thỉnh thoảng lại lôi ra xem… Ngày ấy phong trào diệt ruồi, diệt
chuột của bộ đội sôi nổi lắm. Ruồi thì đếm con, chuột thì đếm đuôi để báo
cáo...
Sau bài
báo 27 chữ, tôi hăng hái viết tiếp và được đăng liền mấy gương “người tốt, việc
tốt” nữa. Sang năm 1962, tôi được rút lên báo Quân khu 3. Ngày ấy tòa soạn đều
là sĩ quan và có vợ con, chỉ mình tôi là lính độc thân, nên đi gần đi xa, khó
khăn gian khổ gì tôi đều xung phong hết.
Nhờ vậy, vốn
liếng cứ đầy dần, để rồi vài năm sau tôi viết được một số truyện ngắn, được giải
thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội và báo Văn Nghệ. Cuối năm 1971, tôi được điều
lên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đúng nửa tháng sau thì tôi vào Trường Sơn viết
tiểu thuyết đầu tay “Mở rừng”…
MAI NAM THẮNG
Nguồn: Văn Nghệ Thái Nguyên

