Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn ở tuổi 80 vừa ra mắt hồi ký “Chua ngọt đời văn”. Tính từ những ngày làm quen với công việc sáng tác ở Trạm cơ giới trồng rừng Dốc Đỏ - Quảng Ninh đến vị trí một nhân vật chữ nghĩa hôm nay, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn đã có 60 năm cầm bút miệt mài.
Nhà văn
Nguyễn Mạnh Tuấn sinh ngày 31/10/1945 tại Sóc Sơn, Hà Nội. Thuở thiếu niên đam
mê bóng đá, nhưng ông không có cơ hội trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Năm
1963, sau khi tốt nghiệp trung học ở Trường Chu Văn An, ông cùng 8000 bạn bè đồng
trang lứa tham gia đoàn thanh niên xung phong Tháng Tám, tạm biệt Thủ đô để tỏa
về những vùng khó khăn góp tay xây dựng cuộc sống mới. Ông được phân công nhiệm
vụ ở Trạm cơ giới trồng rừng Dốc Đỏ đóng trên địa bàn Đông Triều, Quảng Ninh. Nơi
đây, ông tập tành viết lách, và chính thức chào sân văn chương bằng truyện ngắn
“Đêm sương muối” đoạt giải ba cuộc thi viết do Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng cục
Lâm nghiệp tổ chức năm 1968.
Cùng thế hệ
với Tô Ngọc Hiến, Lê Hường, Nam Ninh, Chử Văn Long, Trần Dũng, Phạm Ngọc Chiểu,
Lưu Nghiệp Quỳnh, Đỗ Bảo Châu… trưởng thành trong dòng chảy văn học công nhân, nhà
văn Nguyễn Mạnh Tuấn được điều chuyển về Công ty Ô tô lâm sản Hà Nội năm 1970. Loanh
quanh 36 phố phường vài tháng, ông phát hiện mình cần thực tế để viết, nên đăng
ký tình nguyện vào Hương Sơn, Hà Tĩnh làm lái xe tiếp vận cho chiến trường miền
Nam. Non sông thống nhất, ông được tuyển chọn nhân sự cho Cục Báo chí và Xuất bản
miền Nam, chính thức có mặt tại đô thị phương Nam tháng 11/1975 và định cư đến
bây giờ.
Hồi ký “Chua ngọt đời văn” của nhà văn Nguyễn
Mạnh Tuấn không viết theo trình tự thời gian. Ông thông qua 11 cuộc trao đổi với
các đồng nghiệp thân thiết, để kể lại quá trình sáng tạo của bản thân, từ câu
chuyện “Nhà văn có thể sống bằng nghề?” đến câu chuyện “Nên có cách để nhà văn
bớt yếu thế”. Trong hồi ký, ông bày tỏ quan niệm: “Tôi viết văn chỉ với mục
đích sống bằng nghề và vì một xã hội tốt đẹp hơn, nên luôn bắt đầu ở mức thấp
nhất, vừa với sức mình, để còn đi đường dài… Từ khi quyết định chọn khiêm tốn
thử sống bằng nghề, tôi mới ngộ ra, văn chương càng ít hoang tưởng thì hành
trình sáng tác càng thoáng”.
Đồng thời,
trong hồi ký, ông cũng phác họa bức tranh sinh hoạt văn chương một thời: “Khi bắt
đầu nổi lên với mấy tiểu thuyết “Những khoảng cách còn lại”, “Đứng trước biển”,
“Cù lao Tràm”, tôi hay được các hội văn nghệ, nhà máy, xí nghiệp, trường đại học
mời đến nói chuyện hoặc thảo luận về văn học. Hồi ấy, chưa có văn hóa phong bì.
Nói chuyện xong, thường được đãi bữa nhậu, rồi kèm theo quà. Ở các tỉnh, họ đưa
lên xe chục ký gạo, lạc, đậu xanh hay vài ký tôm khô, kèm giấy chứng nhận hợp
pháp để khỏi bị quản lý thị trường tịch thu. Còn ở thành phố Hồ Chí Minh, thì họ
cho bột ngọt, thịt cá hộp, thùng mì tôm…”.
Chủ trương
sống bằng nghề, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn xin rời biên chế để ưu tiên toàn bộ tâm
sức cho chữ nghĩa. Ông không chỉ viết văn, mà lấn sang cả sân khấu, điện ảnh và
truyện hình. Tạm tổng kết gia tài Nguyễn Mạnh Tuấn cho đến khi ra mắt hồi ký
“Chua ngọt đời văn”, ông có 9 tập truyện ngắn, 12 tiểu thuyết, 17 kịch bản phim
chiếu rạp, 23 kịch bản phim truyền hình nhiều tập, 2 kịch bản sân khấu và 2 bộ
truyện thiếu nhi 11. Để có được khối lượng tác phẩm đồ sộ như vậy, không thể
không nhắc đến một may mắn của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn là nhận được sự thấu hiểu
và sự hỗ trợ hết mực từ bạn đời – nhà thơ Hà Phương. Nhờ khả năng thu vén mọi sự
lớn nhỏ của người vợ tào khang, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn yên tâm đọc rồi viết
và viết rồi đọc. Thậm chí, nhà thơ Hà Phương còn lo liệu phát hành sách cho chồng,
làm phiên dịch cho chồng mỗi khi làm việc với đối tác quốc tế.
Hồi ký
“Chua ngọt đời văn” đầy ắp chi tiết lôi cuốn của một tác giả nhiều trải nghiệm
văn chương. Bởi lẽ, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn không chỉ có những tác phẩm ăn
khách, mà ông cũng là người duy nhất trong giới cầm bút đương thời phải mất 7
năm theo đuổi một vụ kiện để lấy lại danh dự, vì những kẻ tung ra tài liệu giả
mạo để cáo buộc bôi nhọ ông vi phạm bản quyền kịch bản phim “Hải đường trắng”. Khi
hai tiểu thuyết “Đứng trước biển” và “Cù lao Tràm” bùng lên một hiện tượng xã hội,
ông cũng trải qua ngày tháng sống giữa sự phản ứng gay gắt và sự ủng hộ ấm áp. Hơn
thế nữa, sức ảnh hưởng từ trang viết đã giúp ông có cơ hội gặp gỡ những lãnh đạo
hàng đầu quốc gia như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt,
Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị Định…
Trong hồi
ký “Chua ngọt đời văn”, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn hé lộ ông từng đính hôn với
Chín Huệ, em gái của đồng nghiệp Dương Thanh Bình ở Cục Báo chí Xuất bản miền
Nam. Ông đã về Thới Bình, Cà Mau hạnh ngộ Chín Huệ và hứa hẹn trăm năm. Dù hoàn
cảnh trớ trêu khiến đám cưới không thành, nhưng tính cách Chín Huệ cùng với
thái độ sống của nguyên mẫu Năm Trầu (chị vợ của nhà thơ Lê Điệp) đã được ông
hun húc tinh thần các nhân vật trong tiểu thuyết “Cù lao Tràm” lừng lẫy. Nhà
văn Nguyễn Mạnh Tuấn tiết lộ nguồn tư liệu để một người gốc Bắc như ông có thể
viết được “Cù lao Tràm” mang không khí sông nước Cửu Long: “Chủ yếu ở những cuốn
sách về đất và người Nam bộ của các học giả trong, ngoài nước đang nằm im trong
Thư viện tổng hợp TP.HCM. Tôi chỉ may mắn đọc được và chuyển thể thành tiểu
thuyết. Do một mình không đủ sức gánh vác, nên tôi nhờ chị Năm Trầu ở Bến Tre
và em Chín Huệ ở Cà Mau chia sẻ”.
Sống bằng
nghề, thì thu nhập của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn như thế nào? Tập truyện ngắn đầu
tay “Tôi vẫn trở về nhà máy cũ” do Nhà xuất bản Thanh Niên in năm 1978, được trả
nhuận bút 4000 đồng (lương cán sự bậc 5 lúc ấy được 72 đồng) đủ để ông mua một
căn nhà mặt tiền trên đường Hai Bà Trưng khu vực trung tâm TP.HCM. Nhuận bút tiểu
thuyết đầu tay “Những khoảng cách còn lại” in năm 1980 với tổng số 160 nghìn bản,
đủ để ông mua một miếng đất 1200 mét vuông khu vực làng hoa Gò Vấp, hiện tại
làm trường mầm non Hoa Mai do con gái của ông điều hành.
Nhuận bút
nước ngoài trả cho nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, hoàn toàn không giống như sự đồn
thổi hay sự tưởng tượng. Tiểu thuyết “Đứng trước biển” dịch sang tiếng Pháp năm
1983 được trả nhuận bút là một chai rượu vang thương hiệu Bordeaux, dịch sang
tiếng Nhật năm 1984 được trả nhuận bút là một hộp bút loại xịn ở xứ sở Phù
Tang. Tiểu thuyết “Những khoảng cách còn lại” dịch sang tiếng Nga năm 1989 được
trả nhuận bút 3500 rúp (thời giá tương đương 1,2 triệu đồng Việt Nam, mua được
4 chỉ vàng).
Còn nhuận
bút kịch bản phim nước ngoài cũng oái oăm như nhuận bút sách. Năm 2008, nhà văn
Nguyễn Mạnh Tuấn nhận được 1,4 tỷ đồng cho kịch bản phim truyền hình “Huyền sử
thiên đô” 72 tập, 700 triệu đồng cho kịch bản phim truyền hình “Thái sư Trần Thủ
Độ” 35 tập. Cùng lúc, ông được hãng phim BiFrost của Mỹ mời sang đảo du lịch
Cebu của Philippines và lo toàn bộ
chi phí ăn ở đi lại, để viết kịch bản phim. Trong vòng ba tháng, nhà văn Nguyễn
Mạnh Tuấn viết được hai kịch bản phim “Nước mắt phương xa” và “Thủ lĩnh”, mỗi kịch
bản phim được trả 14 ngàn USD (thời giá tương đương 220 triệu đồng Việt Nam).
Nhà văn
Nguyễn Mạnh Tuấn sử dụng chất liệu văn chương rất linh hoạt. Từ tiểu thuyết,
ông dễ dàng chuyển thể sang điện ảnh, và ngược lại. Ví dụ, tiểu thuyết “Những
khoảng cách còn lại” được ông viết thành kịch bản phim “Xa và gần”, còn kịch bản
phim “Biển sáng” thì ông viết thành tiểu thuyết “Đứng trước biển”. Có sở trường
đặc biệt ở dòng văn chương mang tính luận đề, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn thú nhận,
hầu hết tác phẩm của ông đều được sáng tác theo đơn đặt hàng.
Tuy nhiên,
cũng có trường hợp trớ trêu, như năm 1987, ông được Ty Thủy lợi Đắk Lắk đón đưa
nồng nhiệt hơn cả tháng để viết về thành tựu xây dựng hồ đập. Thế nhưng ông chỉ
viết được kịch bản phim tài liệu 45 phút “Giọt nước cao nguyên”, và dành phần lớn
kết quả chuyến đi cho tiểu thuyết “Yêu như là sống” phản ánh thanh niên đô thị
lập nghiệp trên những đồi cà phê. Ông khẳng định: “Nếu Nhà nước đặt viết về những
điều tốt đẹp của Nhà nước, tôi sẽ viết về những điều tốt đẹp mà tôi thấy. Trường
hợp chẳng có điều gì tốt đẹp, tôi sẽ viết về những ước muốn tốt đẹp, cuộc đấu
tranh cho những điều tốt đẹp. Cho đến nay, đơn đặt hàng của các hãng phim, các
đài truyền hình và nhà xuất bản, đến tay tôi, toàn yêu cầu viết tác phẩm chính
luận chống tiêu cực, chống tham nhũng, lên án sự tha hóa của con người, của lớp
cán bộ có chức có quyền nhưng mất phẩm chất”./.
LÊ THIẾU NHƠN


