Nguyễn Huy Thiệp: "Trong mỗi thời thế nào đó, đều có những nhà văn của thời thế đó. Có thể ở cái giai đoạn bắt đầu đổi mới 1986-1987, đã có một làn sóng văn chương và hình như tôi là một trong những người, như người ta nói, nổi bật nhất".


 

NGUYỄN HUY THIỆP: " TÔI ĐÓNG VAI CỦA TÔI CŨNG ĐƯỢC"

YÊN BA

Nguyễn Huy Thiệp bảo:” Có câu chuyện của người Nhật về một anh chàng bắn cung. Anh ta tập mãi, tập mãi, đạt đến trình độ tuyệt đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Anh ta tập nữa. Bịt mắt lại mà bắn vẫn trúng! Rồi dần dần, anh ta bỏ cả tên đi, chỉ bắn bằng cung không! Chim chóc bay ngang nhà anh ta phải vòng tránh, không dám bay qua. Anh ta vẫn tiếp tục tập luyện. Đến một lúc nào đó, bỏ cả cung đi, mà vẫn bắn trúng! Rồi dần dần, chim chóc không bay vòng tránh nữa mà ríu rít đến ở cùng với anh ta...”

TÔI LÀ TAY CHUYÊN NGHIỆP

Yên Ba: Bây giờ anh đã đạt đến độ tự nhiên như nhiên chưa?

Nguyễn Huy Thiệp (cười): Cũng khó mà đạt đến tình trạng tâm lý ấy một cách hoàn toàn. Chỉ đang cố để có thể làm được điều đó. Con người đến một lúc nào đó, sẽ có một trạng thái tự nhiên như không. Cái cây ngoài kia kìa, nó không làm gì lớn lao cả, nó sống cố gắng đến mức khiêm tốn nhất và góp phần với cuộc sống thôi. Giống như tất cả cây cỏ, nếu người ta bứt nó đi thì nó vui vẻ chấp nhận như vậy, nhưng nếu không đốn hay thay nó bằng một cây khác thì nó vẫn sống, vẫn nở hoa, kết quả rất là khiêm nhường.

Yên Ba: Anh đang muốn đạt đến trạng thái ấy?

Nguyễn Huy Thiệp: Không phải! Thế nhưng tôi vẫn nghĩ vậy. Chẳng phải là cây cỏ đâu, mà cuộc sống chúng ta là vậy, cho dù ở địa vị, hoàn cảnh nào. Bố, mẹ, ông, bà… ai cũng thế cả. Không phải chỉ có anh trí thức, anh nhà văn mới nghĩ như vậy. Điều đó nó cũng ngậm ngùi, nhưng mà tự nhiên nó là thế.

Yên Ba: Trạng thái đó anh gọi là gì nhỉ?

Nguyễn Huy Thiệp: Không phải là viên mãn. Tuỳ theo cách nhìn của mỗi người. Đối với những người bi quan thì họ gọi đó là chán đời, là hậm hực với đời hay là cái gì đó tương tự. Đối với những người lạc quan, thì họ gọi đó là viên mãn hay là gì gì đó. Mình thấy đó là chuyện bình thường của tự nhiên. Đã là cuộc sống thì hãy chấp nhận tất cả những trạng thái đó, dù đó là cao thượng hay là dung tục, nọ kia. Chứ không thể nào sống mà tìm được một cái giải pháp tuyệt đối được. Trong cuộc đời, con người ta phải biết mình ở trong từng trạng thái. 50 tuổi, có thể coi là già rồi, phải nhường lại cho lớp trẻ thôi.

Yên Ba: Thực ra anh xuất hiện trên văn đàn với một loạt các tác phẩm trong thời gian tương đối ngắn và nó gây ra một sự tranh cãi hiếm có trong vài chục năm trở lại đây quanh những tác phẩm của anh. Phản bác anh cũng dữ dội mà bảo vệ anh cũng quyết liệt. Có hai xu hướng như vậy. Theo anh, cho đến nay người ta đã nói hết được tất cả về những tác phẩm của anh chưa?

Nguyễn Huy Thiệp: Theo tôi, cho đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu có tính chất gọi là công phu, nhất là ở trên văn đàn hay là báo chí, về tác phẩm của tôi. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy hiện nay có lẽ tôi là một trong số những nhà văn được các sinh viên trẻ làm luận văn tốt nghiệp nhiều nhất. Tôi hỏi mấy giáo sư văn học ở Đại học tổng hợp, Đại học sư phạm Hà Nội, Huế và cả ở Sài Gòn, thì mấy ông đó cũng ngạc nhiên. Tức là các sinh viên tìm hiểu và có lẽ họ thấy cũng có nhiều cái bất ngờ. Có người tìm thấy những quan điểm văn chương, có người thấy những đoạn có chất thơ trong đó, có người thì lại tìm hiểu kỹ thuật truyện ngắn hay là những nụ cười trong các truyện. Tôi thấy đó là những cái rất thú vị, còn những dư luận công bố từ xưa đến nay trên các phương tiện truyền thông, kể cả ý kiến khen hoặc chê đều chưa xác đáng lắm. Có thể là do vội, hay khi đọc người ta tìm hiểu chưa kỹ.

Tôi có những quan điểm văn chương riêng của tôi. Từ khi bước chân vào văn chương, tôi ý thức điều đó khá rõ ràng. Tôi nghĩ văn chương là cái gì đấy biểu tượng của cá nhân, nhưng đồng thời nó lại gắn bó với xã hội, gắn với cái thời tạo ra nó. Trong mỗi thời thế nào đó, đều có những nhà văn của thời thế đó. Có thể ở cái giai đoạn bắt đầu đổi mới 1986-1987, đã có một làn sóng văn chương và hình như tôi là một trong những người, như người ta nói, nổi bật nhất. Tôi cũng ý thức được điều ấy và có lẽ tôi cũng chỉ có thể nổi bật trong một giai đoạn, thời thế ấy mà thôi. Bây giờ cái hiện thực cuộc sống nó khác thời tôi sống hồi đó rồi. Bây giờ muốn viết nữa thì tôi phải đi sâu nữa vào trong cuộc sống, hoặc là tôi phải tham dự trực tiếp vào trong cuộc sống đó. Mà điều đó đối với tôi hiện nay rất hạn chế.

Trước đây khi tôi viết các truyện của mình, tôi đi rất nhiều, tiếp xúc và gặp gỡ rất nhiều. Thậm chí có những truyện tôi viết trên đường đi. Tức là những truyện rất gắn với xã hội lúc bấy giờ. Đó chính là thời gian tôi viết nhiều và nổi bật. Chứ vào thời gian khi tôi mở cửa hàng ăn, tôi đã tuyên bố trên báo là tôi không viết nữa, mọi người cứ tưởng tôi nói đùa. Nhưng thực ra hồi ấy tôi đã có ý thức về chuyện ấy rồi. Tức là tôi chuyển sang viết dưới một hình thức khác: lúc ấy tôi suy nghĩ nhiều về chuyện viết kịch, chứ truyện ngắn tôi không viết mấy nữa.

Yên Ba: Theo anh thì mọi người đọc các tác phẩm của anh vẫn chưa thấu đáo, đọc chưa kỹ, còn vội. Thế có một cái điểm căn bản nào đó, để anh có thể nói với mọi người rằng: cái của tôi thế này kia, mọi người đọc mãi, đọc nhiều truyện của tôi rồi sao không nhận ra!

Nguyễn Huy Thiệp: Tôi có thể tự hào là một trong những người đã có nhiều đóng góp về hình thức truyện ngắn. Tức là tôi đã làm thay đổi tất cả những quan niệm về hình thức truyện ngắn. Không dám nói nhiều về những lĩnh vực khác của văn học, nhưng riêng về thể loại truyện ngắn, thì tôi có thể tự hào về điều đó. Tôi đã đóng góp nhiều cho sự cách tân: về cách kể, về cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện…tóm lại là những gì thuộc về hình thức truyện ngắn.

Tôi đã đưa ra được nhiều hình thức mới. Trước kia, truyện ngắn của Việt Nam nó chỉ đều đều một kiểu mà thôi. Tức là tôi đã làm đa dạng và phong phú thêm. Có những cái mà nói theo lối truyền thống là tính chiến đấu trong văn chương, tôi cũng có, nhưng cũng có nhiều truyện ngắn tôi viết chơi đấy chứ, nhưng ngụ ý của nó rất xa. Ví dụ như truyện Sang sông, hay Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, hoặc Thương cả cho đời bạc chẳng hạn. Nhìn chung, những truyện nào tôi viết về những nhân vật văn chương, hoặc trí thức nọ kia, đều có tính đùa giỡn trong đó. Trước kia trong văn chương của mình chỉ có một kiểu tuyên truyền chính trị thôi, chứ không đi sâu vào cuộc sống. Mà cuộc sống thì rất phong phú: có chiến đấu, có lãng mạn, có đùa cợt…tức là có thế nọ và có cả thế kia. Chúng ta luôn băn khoăn giữa cái chuyên nghiệp và nghiệp dư trong văn học nghệ thuật.

Một thời ở chúng ta có chủ trương văn hoá văn nghệ quần chúng. Văn hoá văn nghệ quần chúng là cái rất hay và tất cả các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp đều từ đó mà ra, tức là từ nghiệp dư mà ra. Từ xưa đến nay, người ta phân biệt một cách không rõ ràng. Theo tôi, người ta thường gắn chuyên nghiệp với một cái gì có tính chất quyết liệt, như hình ảnh một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp: đó là tiền bạc, là sự hết mình, rồi gì gì nữa. Xét ở một khía cạnh nào đó, thì tôi là một tay chuyên nghiệp. Người ta không thể phân biệt tôi là nghiệp dư hay chuyên nghiệp bằng chỗ đứng của tôi ở trong một đoàn thể, cơ quan nào đó. Vì sao? Vì tôi kiếm được tiền từ chính văn chương do tôi viết ra. Sách của tôi được bán đáng kể trong nước và cả ngoài nước. Hay là khi người ta đọc những tác phẩm của tôi, người ta thấy ngay được sự cách tân của nó. Không phải là loại mới tập viết. ở ta có nhiều nhà văn viết rất nhiều sách, nhưng vẫn là nghiệp dư. Đúng không? Nhiều chứ!

Thực ra những người chuyên nghiệp cũng ít. Thậm chí chuyên nghiệp đến mức là người ta phải viết trong mọi hoàn cảnh, viết hết mình và chấp nhận tất cả. Giống như một cầu thủ đá bóng, khi tham gia một trận đấu anh phải chơi hết mình, cố gắng để ghi được bàn thắng, sẵn sàng làm tất cả để chiến thắng và bảo vệ thắng lợi của mình. Tôi cũng thế, nhiều khi tôi vẫn viết những bài báo cho các báo nước ngoài. Đó là những cơ hội để mình bày tỏ các quan điểm của mình và bảo vệ nó.

Yên Ba: Anh có nói là rất ngạc nhiên khi có nhiều sinh viên chọn các tác phẩm của anh để làm luận văn tốt nghiệp. Điều đó có phải là một tín hiệu để cho thấy rằng lớp trẻ tiếp nhận những tác phẩm của anh dễ dàng hơn những người già hay không?

Nguyễn Huy Thiệp: Có thể gọi là tín hiệu cũng được. Nhưng ở đây tôi thấy một nghịch lý của công việc viết văn, tức là công việc sáng tạo. Sáng tạo-hay là phát hiện ra những điều mới mẻ-là công việc rất tuyệt vời, nhưng mặt khác thì đó cũng là công việc rất bảo thủ. Nếu ta theo dõi tình hình văn học nghệ thuật, thì không chỉ ở mình mà tất cả những nơi khác trên thế giới cũng vậy thôi. Tức là phá vỡ được sự bảo thủ không phải là dễ đâu. Sự cách tân để đưa lại cho mình một sự sáng tạo mới không phải là chuyện đơn giản. Mọi người viết rất nhiều, nhưng để được thừa nhận một điều gì đó thì không phải là dễ dàng.

Ví dụ như ông Nguyễn Khải. Đấy là một trong những nhà văn sừng sỏ, có chịu ai bao giờ đâu. Tôi gặp Nguyễn Khải và tôi thấy đó là một nhà văn yêu nghề ghê gớm. Nguyễn Khải là người am hiểu tường tận cái hay cái dở, rồi những cái gọi là kỹ thuật của văn chương. Đấy thực sự là một người đáng kể. Với những bạn đọc như thế thì không dễ dàng cho họ thừa nhận một điều gì mới được. Hay Nguyễn Việt Hà cũng là người ghê gớm đấy chứ. Cũng đọc của tôi, im lặng và quan sát. Hay như những sinh viên trẻ chẳng hạn. Thực ra, bọn họ không phải là vớ vẩn đâu. Tức là họ không chỉ đọc tôi trên văn bản đâu, mà còn xem xét cách thức tôi tổ chức cuộc đời như thế nào, sống ra làm sao, cư xử với mọi người như thế nào?…

Chính những cái đó nhiều khi làm cho tôi cũng hoảng và suy nghĩ nhiều điều. Đó chính là sự thể hiện tinh thần văn hoá Việt Nam mình, văn hoá làng xã mà. Có nghĩa là người ta theo dõi một ông quan chức, ông nhà văn này, cô ca sĩ nọ, một cô hoa hậu hay là một ai đó, thì người ta nhìn toàn bộ… Tức là chuyện đó không đơn giản. Mình không đủ tài, không đủ đức thì bị "ăn đòn" ngay. “Ăn đòn” từ trong gia đình, vợ con, cho đến bạn đọc, dư luận này kia. Đúng không nào?

Yên Ba: Đúng là bạn đọc ngày nay không chỉ nhìn vào tác phẩm. Khi anh chưa thành danh, thì chắc không có chuyện người ta nhóm ngó vào đời sống riêng tư của anh làm gì!

Nguyễn Huy Thiệp: Điều đó thì đúng! Bạn đọc đều như vậy cả. Nhưng có những nhà văn già lại không thông cảm với những khó khăn mà có thời chính họ đã từng trải qua...

 

KHÔNG AI KHỔ SỞ NHƯ ANH NHÀ VĂN

Yên Ba: Bây giờ xin quay trở lại giai đoạn anh tuyên bố ngừng bút, “rửa tay gác kiếm”, vào khoảng năm 1993, sau thời anh làm nhà hàng ăn Hoa Ban. Vậy nguyên nhân nào khiến anh làm như vậy? Phải chăng anh cho cái thời của mình đã qua? Sau đó anh còn viết nữa không?

Nguyễn Huy Thiệp: Đó là khoảng thời gian tôi ý thức được rất rõ ràng về thời thế. Tôi là một người cảm nhận rất rõ về thời thế. Nếu xét về một khía cạnh nào đó, tôi có thể thấy là không khí thời đại lúc đó nó đã khác so với trước, tức là so với cái dạo tôi mới bắt đầu viết. Khi bắt đầu đổi mới, xã hội chúng ta có một cái gì đó như là một sự thay đổi toàn bộ thời thế. Đúng vậy không?

Yên Ba: Ngoài nguyên nhân đó ra, liệu anh có suy nghĩ: mình là đại cao thủ rồi, bây giờ mình không động thủ nữa?

Nguyễn Huy Thiệp: Không phải! Mình không có cái suy nghĩ như vậy. Trong cuộc đời nó có nhiều chuyện vấp váp khác nữa. Ở cái giai đoạn khi mới bắt đầu viết văn, thì cái độ hồn nhiên và trong sáng của tôi nó cao lắm. Vừa rồi, khi tôi đọc lại cuốn hồi ký Nhớ lại của Đào Xuân Quý, thì tôi thậm chí chẳng hiểu gì hết! Tức là lúc đó tôi không quan tâm đến việc mình nổi tiếng hay những sự “đánh nhau” trong giới văn nghệ. Mặc dù khi đó, tôi đã có in mấy truyện trên báo Văn nghệ. Tôi không có ý nghĩ là kiếm chác hay cái gì đó tương tự. Ngay như ông Nguyên Ngọc, hồi đó tôi cũng không biết mặt mà sau này gặp ông ấy một cách ngẫu nhiên. Hôm ấy tôi đang đi làm với một anh bạn thì gặp ông ấy đang đi bộ ở vườn hoa Con Cóc ấy, anh bạn chỉ cho tôi đó là ông Nguyên Ngọc, lúc đó mới biết, rồi chào hỏi chuyện trò với nhau...

Tức là mình không quan tâm đến những sinh hoạt văn nghệ lúc bấy giờ, nên khi đọc lại cuốn sách của ông Đào Xuân Quý, tôi rất ngạc nhiên trước những chuyện ghê gớm, phê phán này nọ...Chứ nếu lúc đó quan tâm đến những chuyện sinh hoạt trong giới văn nghệ như ông Đào Xuân Quý kể lại, thì có lẽ tôi không dám viết đâu. Vì tôi viết có phải vì tiền bạc hay vì cái gì đâu. Nếu vì những chuyện đó mà viết thì độ trong sáng của tác phẩm mình nó sẽ không cao.

Hồi đó có nhiều chuyện kinh khủng lắm. Nhất là sau khi bị khám nhà năm 1991. Hồi đó tôi có hai nhà, một ở trong làng và một ở trên phố Quán Thánh, bị khám cả hai với tội danh: tôi là thằng phá hoại xã hội chủ nghĩa! Con tôi đang đi học bị bạn bè tẩy chay, nói bố mày là thằng phản động. Đó là cú rất kinh khủng. Tôi cứ ngẩn người ra, hoàn toàn không hiểu mô tê gì cả. Bắt đầu từ đấy trở đi, tôi viết với tính triết lý nhiều hơn với giai đoạn trước. Có những truyện như Sang sông và nhiều truyện khác về sau nữa nhuốm màu Phật giáo. Chính những sự kiện đó đã phân ra hai giai đoạn rõ rệt trong các sáng tác của tôi. Thời kỳ đầu độ hồn nhiên nó cao, còn về sau tôi tập trung nhiều vào việc tìm tòi các hình thức và tôi tránh xa những vấn đề gọi là nhạy cảm.

Yên Ba: Anh nghĩ sao về văn học thời kỳ đó?

Nguyễn Huy Thiệp: Văn học thời kỳ đó đang trong thời điểm cách tân và nó đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử nhất định. Nó đã gắn chặt với đời sống xã hội và có nhiều tác động tích cực đến xã hội, kể cả về chính trị. Tất nhiên văn chương nghệ thuật không phải đều có lợi tất cả. Vẫn có những tác phẩm văn chương nghệ thuật có hại đấy chứ. Nhưng không phải vì thế mà văn chương nghệ thuật chỉ có làm mỗi việc là tuyên truyền chính trị mà thôi. Nó cần phải có một góc nhìn tương đối rộng rãi, thoáng đãng về văn học nghệ thuật. Những lúc ấy, nó tạo cơ hội cho các tài năng phát triển. Nếu không thì người ta lại đi tìm con đường khác. Đúng không? Không có ai khổ sở như là nhà văn trong tất cả các loại hình nghệ thuật sáng tạo. Nhọc nhằn lắm.

Yên Ba: Những cái đó có để lại dấu vết trong những tác phẩm của anh sau này không?

Nguyễn Huy Thiệp: Không! Tôi không đề cập đến những chuyện đó trong các tác phẩm của mình.

 

NỖI BẤT BÌNH KHÔNG PHẢI CỦA RIÊNG RÔI

Yên Ba: Một số tác phẩm của anh đã gây ra nhiều xôn xao trong dư luận. Có những người bảo vệ anh quyết liệt, nhưng cũng có những người phê bình anh rất độc địa. Một vài truyện ngắn của anh theo ý của tôi hiểu là có những chi tiết kiểu “mượn văn chửi người”. Nếu bây giờ được phép viết lại những truyện đó, anh có viết như thế nữa không?

Nguyễn Huy Thiệp: Thời ấy nó khác. Văn chương của mình thời đó khác. Cái nỗi bất bình này không phải là của riêng tôi đâu. Ví dụ cái truyện trong đó tôi ám chỉ mấy ông, về sau tôi rất ân hận. Nhưng mà rõ ràng đó là những người lãnh đạo văn học nghệ thuật và họ phải là lương tâm của thời đại cơ mà. Cái thằng trí thức sống trong một thể chế bao cấp, mà lại như vậy thì làm sao giương cao những khẩu hiệu để thức tỉnh mọi người được. Cái nỗi bất bình của tôi lúc ấy, về một khía cạnh nào đó là nỗi bất bình của bạn đọc đấy chứ không phải là của riêng tôi đâu. Rõ ràng trong chuyện này, những ông cầm trịch cả cái giới văn học nghệ thuật cũng có cái tội liên đới. Tức ở một góc nào đó, cái chuyện tôi chửi cũng xứng đáng. Ông Nguyên Ngọc có phải là tay khờ đâu và cũng là một tay ghê gớm lắm chứ. Nhưng ông ấy cũng có nỗi bất bình giống như tôi và rất nhiều bạn đọc bình thường khác. Họ bất bình với cái nền nghệ thuật của chúng ta lúc bấy giờ, mà mấy ông này là đại diện.

Yên Ba: Nhưng phải công nhận cái cách mà anh thể hiện trong những truyện ngắn về chuyện đó, nó độc địa quá, người ta đọc là nhận ra ngay, nhất là ở thời điểm đó…

Nguyễn Huy Thiệp: Đúng rồi! Nhưng hồi ấy mình viết những cái đó nó hồn nhiên lắm. Chính vì hồn nhiên nên mới làm được điều đó, chứ vì nếu một lý do nào đó thì không ai người ta chấp nhận và đó không phải là nghệ thuật nữa. Trong một nền văn học lành mạnh, thì người ta chọc đùa, giễu cợt nhau cũng là chuyện thường thôi. Ở Pháp người ta cũng có như thế, khi Balzac cay cú với Hugo chẳng hạn. Hay như Vương Sóc ở Trung Quốc gần đây. Điều đó thể hiện sự lành mạnh của nền văn học.

Ở ta từ xưa đến nay, văn nghệ sĩ quá thụ động, khi thời thế thay đổi, họ không theo kịp, nên sinh ra chửi rủa, bất bình nọ kia. Họ cứ đi từ cực nọ sang cực kia như thế cũng không phải là một điều hay ho gì. Nhất là thế hệ trẻ, cần phải tỉnh táo khi mà thời thế thay đổi. Cần phải có sự nhìn nhận văn chương trong toàn bộ đời sống xã hội, chứ không phải chỉ nhìn phiến diện. Bây giờ phương tiện khoa học kỹ thuật quá phát triển, các thông tin nghe nhìn thì tràn ngập, anh phải xem xét mình sống và viết như thế nào cho phù hợp. Làm văn chương trong cái thời buổi này theo tôi là rất khó.

 

TÔI CŨNG PHẢI CHỐNG LẠI NHỮNG QUAN NIỆM CŨ VỀ KỊCH

Yên Ba: Có phải vì những khó khăn đó mà anh đã chuyển sang viết kịch? Anh muốn gửi gắm điều gì ở lĩnh vực mới này?

Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ rằng: văn học nó có thị trường của nó và nó phải vươn về phía đại chúng. Đến một lúc nào đó, tôi nghĩ chuyện viết kịch hay viết kịch bản phim rất quan trọng. Tôi viết vở kịch đầu tiên vào năm 1988. Hồi ấy Lưu Quang Vũ còn sống và ông Nguyễn Khải đã giới thiệu tôi với Lưu Quang Vũ. Ông Khải nói với tôi là Vũ rất muốn chuyển cái truyện Không có vua của tôi sang kịch. Thế là Lưu Quang Vũ và tôi gặp nhau bàn việc chuyển truyện đó sang kịch, hai người cùng hợp tác viết. Nhưng rồi khi ngồi nói chuyện với nhau, tôi thấy quan niệm văn chương, quan niệm kịch của Lưu Quang Vũ có khác với mình. Thế là tôi bảo Lưu Quang Vũ “anh cứ viết đi, tôi không viết nữa đâu”. Lưu Quang Vũ đồng ý và tỏ ý rất thích truyện đó, nhưng rồi anh ấy chưa kịp làm gì thì đã mất.

Sau khi Vũ mất, nữ đạo diễn Phạm Thị Thành gặp tôi và bảo một trong những mong muốn của Vũ lúc cuối đời là chuyển cái truyện của tôi thành kịch. Chị ấy bảo là tôi viết đi, rồi sẽ giúp dựng cho. Tôi nghe lời và viết vở “Quỷ ở với người” trong khoảng 2 tuần lễ. Sau đó chị Phạm Thị Thành có tổ chức tập ở nhà hát Tuổi trẻ, nhưng không thành công. Thực ra tôi cũng không thích vở đó lắm. Phần sau thì kém và hơi dung tục, còn phần đầu thì được...Chị Thành tỏ ý rất thích vở kịch của tôi viết.

Khoảng năm 1990, lúc ấy tôi đang lo chuyện làm ăn buôn bán của gia đình, thì chị Thành dẫn tôi tới ra mắt Hội đồng nghệ thuật của Nhà hát kịch Việt Nam để đọc vở Quỷ ở với người. Tôi nhớ lúc ấy có 6, 7 cô gái thơm nức nước hoa, một loạt các ông nghệ sĩ mình đều không biết mặt. Thế là tôi ngồi đọc vở kịch đó, nhưng đọc được khoảng được hai trang thì tôi biết mình không thể nhập được. Tức là cái lối kịch của mình gây ra một phản ứng không tốt cho những người ngồi nghe ở đó. Hoặc là họ bị xúc phạm, hoặc là họ bị hụt hẫng. Tôi biết họ vẫn ngồi nghe tôi đọc, nhưng họ chẳng hiểu gì cả. Nhưng tôi vẫn cứ đọc và mọi người vẫn cứ theo dõi. Sau khi tôi đọc xong, mọi người lặng đi. Chờ mãi, tôi tức quá mới bảo mọi người hãy cho ý kiến, thì lúc đó mọi người mới vỗ tay. Tôi biết ngay là mình thất bại, tức là quan niệm kịch của tôi vấp phải một cái khuôn sáo, một lối tư duy cũ rồi.

Điều đó khiến cho tôi vừa nhục nhã, vừa đau đớn, vừa bất bình, tôi muốn tung hê hết tất cả những bài viết của mình. Lúc ấy tôi cứ tự hỏi tại sao mình viết mà luôn gặp trở ngại thế này? Như hồi đầu, mấy truyện như: Không có vua, Những ngọn gió Hua Tát, Giọt máu, Chảy đi sông ơi, đưa cho ông Bế Kiến Quốc, Ngô Ngọc Bội ở báo Văn nghệ. Đọc truyện Chảy đi sông ơi, ông Bế Kiến Quốc bảo: hay nhưng tại sao nó buồn thế? Ngô Ngọc Bội thì đọc mấy truyện rồi đưa cho tôi một tập báo Văn nghệ, bảo: đọc đi rồi xem đó mà viết.

Sau đó tôi viết hai truyện Cô Mi và Vết trượt, gửi cho ông Bội và ông Quốc, được in ngay. Đó là hai truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng trên báo Văn nghệ năm 1986. Cái truyện Cô Mi, lúc đầu tôi đặt tên là Vọng phu, nhưng ông Bội đổi lại thành Cô Mi, tức là tên cô gái trong truyện. Truyện này đăng trên báo Văn nghệ số 18, năm 1986, còn đến số 39 truyện Vết trượt mới được in.

Lúc đó tôi đã viết được gần một tập sách rồi, cuốn Những ngọn gió Hua Tát. Khi đó tôi gửi những truyện hay nhất của tôi lên đó, như: Không có vua, Những ngọn gió Hua Tát, Giọt máu, Chảy đi sông ơi, Tướng về hưu… Nhưng rồi vẫn không dùng được vì theo lời mấy ông ấy là viết như thế không ổn. Lúc ấy tôi cũng biết rằng: mình phải chống lại cả một thành kiến văn học. Sau khi in mấy truyện đó, thì tôi không gửi truyện cho báo Văn nghệ nữa. Cũng như sau này tôi không bao giờ đến Nhà hát kịch nữa. Sau cái chuyện ở Nhà hát kịch, chị Phạm Thị Thành bảo tôi đừng viết những vở kịch cách tân quá, hãy viết những vở có tính truyền thống. Thế là tôi viết vở Còn lại tình yêu, về Nguyễn Thái Học.

Bà Thành giới thiệu tôi với một đạo diễn nổi danh lắm để ông ấy đọc vở kịch cho tôi. Đó là vở kịch thứ hai của tôi viết. Ông ấy đọc xong và bảo: nếu đổi được thành ông Nguyễn Văn Cừ thì hay quá! Tôi chán luôn. Hôm ở nhà ông đạo diễn ấy, tôi có gặp một ông đạo diễn khác. Hồi ấy đang hăng, nên để cho ông ấy đọc vở kịch của mình, nhưng rồi ông ấy cũng nói như ông kia! Tức là tôi càng biết rõ rằng: mình đang phải chống lại những quan niệm cũ về kịch cũng như văn chương. Thế nhưng tôi viết cũng được gần chục vở, đã công bố 7 vở, trong đó có hai vở được dịch sang tiếng Pháp là vở Quỷ ở với người và Suối nhỏ êm dịu.

Yên Ba: Qua các vở kịch của mình, anh muốn gửi gắm điều gì? Hay anh muốn thay đổi những quan niệm về kịch của Việt Nam?

Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ tất cả cũng chỉ mới trong sự thử nghiệm mà thôi. Bởi vì tôi chưa viết được nhiều lắm. Có lẽ phải viết được khoảng từ 15 đến 20 vở, thì lúc đó mới có thể nói được điều gì đó. Còn hiện nay, với những vở kịch của tôi, qua vài ba cách thể hiện, cũng như qua sự dàn dựng thử nghiệm của chị Phạm Thị Thành thì tôi thấy cái lối viết kịch của mình còn nhiều cái để sửa lại. Đúng ra, những nhà viết kịch phải ở trong các nhà hát, ở gần các đạo diễn, diễn viên, rồi họ phải đắm chìm trong không khí của sân khấu, lúc đó mới có thể thành công được. Moliere đã như thế! Hay Lưu Quang Vũ cũng đã từng như thế. Bởi vì viết một vở kịch để diễn thì phải gắn liền với một nhà hát nào đó, với những diễn viên nào đó, phải gắn với không khí cuộc sống lúc bấy giờ. Tôi đã từng đưa một số vở kịch của mình cho một số nhà hát như Nhà hát kịch Hà Nội chăng hạn, thế nhưng ông giám đốc đã từ chối dàn dựng.

Yên Ba: Tức là vẫn thiếu một cái gì đó để có thể dàn dựng được?

Nguyễn Huy Thiệp: Những vở kịch của tôi, khi muốn lên sân khấu cần phải có sự hợp tác của đạo diễn, thậm chí phải viết lại một vài đoạn. Tức là tôi thiếu đi một cái không khí sân khấu để viết cũng như thiếu cái đó trong các vở kịch của mình. Hay là những vở kịch của tôi nó chưa đến được với những diễn viên và đạo diễn sân khấu. Tức là đạo diễn và diễn viên họ đã quen một cái lối làm việc rồi và tôi rất ngạc nhiên khi thấy văn hoá đọc của họ rất yếu. Hầu như họ không đọc hoặc là họ đọc mà không hiểu. Thậm chí ngay như nhiều người có tên tuổi, nếu có những đoạn văn mang tính trừu tượng là họ chịu.

Yên Ba: Một vở kịch của anh có tên là Sen nở ngày 29-4. Có phải vô tình không, khi anh viết vở kịch đó?

Nguyễn Huy Thiệp: Vở đó tôi viết cho một tờ báo ở Pháp. Tôi không nhớ tên tờ báo đã đặt tôi viết vở đó. Ngày 29-4-1964 là ngày tờ báo đó ra đời; bởi vậy, cứ vào ngày 29-4 hàng năm, tờ báo đó lại mời một số nhà văn, hay là những tay nổi tiếng trên thế giới viết một cái gì đó về ngày đó, ở địa điểm mà mình sống và gửi cho họ. Thực ra họ chỉ mời mình viết một bài báo thôi, nhưng tôi lại biến lời mời đề nghị của họ thành việc viết một vở kịch. Tức là tôi viết về một ngôi chùa ở một ngôi làng của Việt Nam, chuyện diễn ra từ sáng sớm cho đến nửa đêm ngày 29-4. Tất nhiên trong đó nó có cả những vui, buồn, có cả những đau khổ, hạnh phúc, rồi chuyện nọ chuyện kia.

Yên Ba: Tôi thì nghĩ rằng anh không tình cờ khi nhận lời và viết vở kịch đó, bởi vì tôi biết rằng anh cũng sinh vào ngày 29-4. Chắc nó cũng mang đầy tâm sự của anh. Khi cái nhân vật sinh ngày 29-4 trong vở kịch đặt ra câu hỏi: “Ta là ai?” thì đấy có phải là câu hỏi của chính anh không?

Nguyễn Huy Thiệp: Hồi ấy tôi có một tâm thế như thế này: tôi vừa mới làm xong pho tượng Phật lớn đặt trong vườn nhà. Bạn đọc đến với tôi rất nhiều, trong Nam ngoài Bắc, miền núi rồi miền xuôi…Nhiều lắm! Bạn đọc của tôi có cả những cô ca ve, vũ nữ, rồi những tay ở trong miền Nam ra. Họ đến với tôi, rồi trò chuyện với nhau. Có người thì mình an ủi họ, có người thì mình cho họ tiền. Ai đến cũng đặt những câu hỏi về bản thân họ. Từ cái tâm thế đó, tôi lấy tinh thần của tư tưởng đạo Phật “thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”, tức là trên trời dưới đất thì con người ở giữa, để viết vở kịch đó.

Yên Ba: Đến giờ anh đã trả lời được câu hỏi “Ta là ai?” trong vở kịch ấy chưa?

Nguyễn Huy Thiệp: Một phần nào đó. Tôi nghĩ rằng cuộc sống càng ngày càng phức tạp và tôi cũng cần phải sống, theo như cái triết lý của đạo Phật là “sắc sắc không không” vậy. Khi mà tới được đạo, thì con người ta phải trải đời lắm mới hiểu được đạo. Đạo giống như chính là văn hoá của đời sống thôi mà. Tôn giáo, nó cũng là văn hoá.

 

MỖI NGƯỜI TRONG CHÚNG TA LÀ MỘT SA MẠC

Yên Ba: Anh có nói: nếu không có tôn giáo thì thế giới sẽ hỗn loạn ngay. Trong một vở kịch nào đó của anh đã có câu như thế?

Nguyễn Huy Thiệp: Đúng vậy! Tôn giáo cũng là một phần của đời sống xã hội, cũng như văn hoá vậy. Kể cả văn chương cũng thế. Nhưng tôn giáo thì nó có cái gì đó tập thể hơn, cộng đồng hơn. Dùng từ Đạo thì nó rõ nghĩa hơn. Đời cũng là Đạo, mà Đạo cũng là Đời. Anh xây nhà cũng có cái Đạo của anh. Anh làm báo cũng có cái Đạo làm báo. Anh làm chồng có cái Đạo làm chồng. Hay là anh bồ bịch với ai đó, thì cũng có cái Đạo riêng. Nhà văn cũng có cái Đạo của mình. Mỗi người đều có cái ý thức về điều đó. Nếu không có những cái đó, thì chẳng phải là con người nữa.

Yên Ba: Làm nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đối với anh có khó khăn không?

Nguyễn Huy Thiệp: Tôi vừa chịu đựng, đồng thời cũng vừa chấp nhận cái vai của mình. Có lẽ tôi đóng vai của tôi cũng được! Trong nhà, tôi có thể tự hào với vợ con, ra ngoài tôi cũng có thể tự hào với bạn bè, với độc giả trong và ngoài nước. Có lẽ đến bây giờ, tôi sống tự nhiên nó vậy, mà chẳng có một cái gì khác cả. Từ trong nhà đến ra xã hội, từ bạn đọc già đến trẻ, trong nước hay nước ngoài, quen biết hay không quen biết, tôi đều sống rất tự nhiên, không phải cố gắng gì cả.

Yên Ba: Theo giáo lý của đạo Phật là thuận theo tự nhiên, nhưng thực ra với những tranh cãi xung quanh anh thì đâu phải là tự nhiên. Nó luôn tạo nên một sức ép cả vô hình và hữu hình trong cuộc sống cá nhân của anh, thì làm sao anh có thể gọi là sống tự nhiên được?

Nguyễn Huy Thiệp: Làm con người, ai cũng phải thế cả.

Yên Ba: Anh có khi nào thấy cô đơn, thấy mình đang đơn độc không?

Nguyễn Huy Thiệp: Nhân khi anh hỏi hỏi về tôi, thì tôi mới thấy rằng: nhà văn, cốt yếu là một người chịu đựng cô độc, mỗi người trong chúng ta là một sa mạc. Đây là câu của một tay nhà văn nước ngoài. Tôi thấy câu này có lý lắm. Một câu nữa nói về nhà văn mà tôi cũng thích là: Vinh quang đẹp đẽ nhất của nhà văn là làm cho những người có thể tư tưởng chịu tư tưởng. Làm được điều ấy không phải dễ. Vì khi sáng tạo nó phải đơn độc chứ. Nếu anh không chịu đựng được điều đó, thì anh không thể sáng tạo ra được cái gì đâu.

Viết lách là công việc của nhà văn và nó là công việc cực kỳ cá nhân. Khi anh viết, anh biết mình đang làm gì rồi. Bắt đầu, vứt đi, loại bỏ, luôn luôn bị giằng xé giữa vô nghĩa và có nghĩa, giữa cái hay và cái dở, giữa cái này và cái kia. Anh càng kinh nghiệm thì cái việc đó càng khó khăn; anh ít kinh nghiệm thì anh làm cái việc đó dễ dàng. Cũng giống như tuổi trẻ, ít kinh nghiệm nên có thể yêu nhau rất dễ, nhưng anh càng trải nghiệm tuổi đời thì việc đó không dễ dàng nữa. Tuổi trẻ sôi nổi, nên có thể làm bừa đi, vì nó không có kinh nghiệm trong cuộc sống, nó hồn nhiên. Phải không?

Yên Ba: Một cách giản dị, anh quan niệm công việc viết văn của anh như thế nào?

Nguyễn Huy Thiệp: Văn học chính là quá trình quan sát bản thân cá nhân mình. Mình tự phát hiện những vấn đề trong cuộc sống của bản thân mình, của tự nhiên, của xã hội và mình kể lại cho mọi người nghe. Làm sao anh phải kể lại một cách chân thực nhất, nghệ thuật nhất. Không được giả tạo. Tôi nghĩ rằng, công việc viết văn là công việc sáng tạo, công việc khám phá bản thân mình, khám phá tự nhiên, khám phá xã hội và diễn đạt lại những điều mình khám phá được cho mọi người biết một cách nghệ thuật và chân thực nhất.

Yên Ba: Cứ tạm coi là có một thời kỳ của anh đi. Vậy nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhìn nhận văn học sau cái thời của Nguyễn Huy Thiệp như thế nào?

Nguyễn Huy Thiệp: Văn học nó gắn với rất nhiều thứ, chứ mỗi cột mốc tiêu biểu không có ý nghĩa gì đâu. Bởi văn học luôn luôn đa dạng và phong phú lắm. Anh làm sao biết được sau cái gọi là mốc tiêu biểu đó là như thế nào? Cũng giống như anh đi trên con đường cao tốc từ Hà Nội về Hải Phòng, hay vào Thành phố Hồ Chí Minh, anh làm sao biết được sau cây số 10 nó như thế nào! Anh cứ nghĩ là ở cây số 11 nó sẽ bao la, thoáng đãng hơn. Nhưng đã chắc gì đâu! Tức là văn học nó gắn với rất nhiều thứ và mỗi người viết có một càm giác, một cách nhìn nhận thời thế khác nhau.

Yên Ba: Anh hiểu sai ý rồi! Nếu cách đây 10, 15 năm, với câu hỏi đó thì anh trả lời như vậy là hoàn toàn chính xác, vì lúc đó anh đang ở cây số 10 thôi. Nhưng bây giờ là khi đã có một khoảng lùi về mặt thời gian, anh đánh giá nền văn học Việt Nam đương đại, mà anh là phần trong đó, như thế nào?

Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ rằng, văn học Việt Nam cũng có một sự đổi mới gắn liền với sự đổi mới của toàn xã hội. Như về y tế, giáo dục… Trước kia nó mang tính bế quan toả cảng, mang tính khép kín. Bây giờ, nó bắt đầu trỗi dậy, vươn tới và có sự hoà nhập, tìm tiếng nói chung với văn học thế giới. Tất nhiên để đạt được điều đó không phải là dễ. Cũng giống như sách của tôi in ở nước ngoài, nó cũng là một thứ hàng hoá như cái áo của ta xuất qua Đông Âu, hay bán cá qua Mỹ chẳng hạn. Văn học nó cũng như thế. Nó không thể cứ ở trong nhà, và rồi “con hát mẹ khen hay” như ngày xưa nữa.

Văn học chúng ta khoảng từ năm 1990 trở lại đây đã ra thế giới khá nhiều rồi đấy. Ví dụ như những sáng tác mới của Phan Thị Vàng Anh, hay là mấy tác giả trẻ, được đưa lên Internet hôm trước thì hôm sau cả thế giới biết rồi. Bây giờ không chỉ mỗi mình mình định giá tác phẩm, mà tất cả những người đọc trên thế giới đều định giá nữa. Tôi là một trong những người đi tiên phong trong việc in sách của mình ở nước ngoài và có lẽ tôi là một trong những người hiện nay có sách in ở nước ngoài nhiều nhất. Nhưng đó cũng là một bi kịch đấy. Vì mình đi tiên phong không có kinh nghiệm nên gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn thua thiệt rất nhiều nữa. Nhưng đó là điều tôi chấp nhận.

Yên Ba: Công việc hàng ngày của anh hiện nay là làm những gì?

Nguyễn Huy Thiệp: Ở nhà thế thôi! Trông nhà, làm vườn, rồi cơm nước cho vợ con, theo dõi các con học hành. Làm một người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình. Rồi suy nghĩ, viết được cái gì nữa thì viết…

Yên Ba: Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện thú vị này!

 

(Bài in trên Viết & Đọc số mùa xuân 2021)