Nguyễn
Khắc Trường - Ánh
sáng đau đáu mà kiêu hãnh
LÊ HUY
HOÀNG
1.
Ông không
chỉ được biết đến với tư cách tác giả của tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người
nhiều ma", mà còn với vai trò một người làm sách tận tâm, từng giữ cương vị
Phó giám đốc - Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn.
Con người ấy,
với ánh mắt hiền từ nhưng kiêu hãnh, với nụ cười hóm hỉnh mà chất chứa bao suy
tư, đã sống trọn vẹn cho chữ nghĩa, cho đồng đội, cho gia đình, và cho bạn văn.
2.
Nguyễn Khắc
Trường sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946, tại xã Bình Sơn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Bắc
Thái (nay thuộc Thái Nguyên). Quê ông là miền trung du, nơi đất đai cằn cỗi
nhưng chan chứa nghĩa tình. Tuổi thơ của ông gắn với những năm tháng khó khăn
sau chiến tranh, gia đình bị xếp thành phần trung nông sau cải cách ruộng đất.
Những dấu ấn ấy trở thành chất liệu sâu xa để sau này ông viết về số phận những
con người lam lũ, về sự giằng xé, tranh chấp nơi làng quê.
Năm 1964,
khi vừa tròn 18 tuổi, ông nhập ngũ, trở thành chiến sĩ thông tin vô tuyến điện
của Quân chủng Phòng không - Không quân. Tuổi trẻ của ông là những năm tháng
bom rơi đạn nổ, gian khổ nhưng cũng rèn luyện cho ông bản lĩnh kiên cường. Sau
này, ông vẫn nhắc đến đời lính bằng sự tự hào: chính quân ngũ đã dạy ông tính kỷ
luật, lòng trung thực và sự dấn thân - những phẩm chất cần thiết cho cả văn
chương và nghề làm sách.
3.
Như nhiều
cây bút trẻ thời ấy, Nguyễn Khắc Trường cầm bút từ trong quân ngũ, ban đầu với
bút danh Thao Trường - một cái tên đậm chất lính tráng, hàm ý vừa là thao trường
rèn luyện, vừa là chiến trường nóng bỏng. Dưới bút danh này, ông cho ra đời các
tập truyện vừa và truyện ngắn như "Cửa khẩu" (1972), "Thác rừng"
(1976), "Miền đất mặt trời" (1982).
Những tác
phẩm này tuy chưa gây tiếng vang lớn nhưng cho thấy một ngòi bút nghiêm túc, gắn
bó với đời sống bộ đội và miền núi. Đó là những “bước chạy đà” để chuẩn bị cho
cú nhảy vọt sau này. Ngay trong các trang viết đầu tiên ấy đã manh nha cách
nhìn xã hội gai góc, ưa đi thẳng vào những mâu thuẫn âm ỉ của đời sống.
4.
Năm 1979,
Nguyễn Khắc Trường được cử đi học khóa I Trường Viết văn Nguyễn Du. Sau đó, ông
về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi chuyển sang Báo Văn nghệ của Hội
Nhà văn Việt Nam.
Năm 1986,
ông giành giải Nhất cuộc thi bút ký của Báo Văn nghệ và Đài Tiếng nói Việt Nam
với tác phẩm "Gặp lại anh hùng Núp". Bút ký ấy đã cho thấy tầm vóc một
cây bút dấn thân, có khả năng kết hợp chất liệu lịch sử với chiều sâu nhân văn.
Nhưng
chính chuyến đi thực tế ở Triệu Sơn (Thanh Hóa) cuối thập niên 1980 mới thật sự
định hình tác giả. Ông sống cùng dân, ăn khoai sắn độn bo bo, chia sẻ cả cái
đói, cái nghèo và những mâu thuẫn nảy sinh nơi nông thôn thời kỳ Đổi mới. Chính
ở đây, ông bắt gặp nguyên mẫu cho nhiều nhân vật sau này, trong đó có lão Quềnh.
Từ vốn sống ấy, ông viết nên "Mảnh đất lắm người nhiều ma" (1990), lập
tức gây chấn động.
5.
Năm 1991,
"Mảnh đất lắm người nhiều ma" được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nam, cùng với "Nỗi buồn chiến tranh" (Bảo Ninh) và "Bến không chồng"
(Dương Hướng). Bộ ba này trở thành dấu mốc đổi mới mạnh mẽ của văn xuôi Việt
Nam.
Trong
"Mảnh đất lắm người nhiều ma", Nguyễn Khắc Trường dựng nên bức tranh
nông thôn Bắc bộ đầy dữ dội, nơi những mâu thuẫn dòng họ, sự đố kỵ, tranh giành
quyền lực, thù hận cá nhân cứ nối tiếp. Tác phẩm vừa như một biên niên sử làng
quê, vừa như một bản cáo trạng xã hội. Nhân vật lão Quềnh - gã khờ vừa hiền
lành vừa bi thương - đã trở thành biểu tượng văn học Việt.
Không dừng
ở trang sách, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim "Đất và người",
thành vở kịch sân khấu, lan tỏa tới hàng triệu khán giả.
6.
Sau thành
công, Nguyễn Khắc Trường không ngủ quên. Ông bước vào vai trò người làm sách. Từ
Phó Tổng Biên tập Báo Văn nghệ đến Phó Giám đốc - Tổng Biên tập NXB Hội Nhà
văn, ông dành hơn một thập kỷ cho công việc thầm lặng nhưng không kém phần quan
trọng.
Với sự cẩn
trọng của biên tập viên kỳ cựu, ông đọc từng câu chữ, góp ý thẳng thắn, nhiều
khi còn quyết định vận mệnh của một bản thảo. Ông được nhớ như “bà đỡ mát tay”
- người giúp nhiều tác giả trẻ có cơ hội in những truyện ngắn đầu tay.
Ở ông, người
ta thấy sự bao dung của đàn anh và sự nghiêm khắc của người gìn giữ chuẩn mực
văn chương.
7.
Nguyễn Khắc
Trường từng nói: “Tôi luôn đi tìm vấn đề chứ không tìm mẫu nhân vật. Khi đã tìm
ra vấn đề, tôi ném nhân vật vào bối cảnh ấy, bắt nó phải sáng tạo ra cuộc đời của
nó”.
Với ông,
văn học không thể xa rời đời sống. Chính vì vậy, suốt những năm cuối đời, dù sức
khỏe suy yếu, ông vẫn đau đáu với đề tài “tam nông”, ấp ủ một cuốn sách về nông
thôn mới.
8.
Bạn bè nhớ
ông bởi sự chân thành đến thẳng thắn. Trong công việc, ông gắn chặt danh dự và
đạo đức vào từng quyết định. Trong đời sống, ông giản dị, khiêm nhường nhưng
phân minh.
Ông và vợ
- bà Khang - có mối tình dài gian truân, phải xa nhau hơn chục năm thời chiến,
đến khi gần tuổi già mới sum họp ở Hà Nội. Hạnh phúc muộn ấy khiến ông càng
trân trọng gia đình, luôn là người chồng mực thước, người cha đôn hậu.
9.
Khoảng hai
mươi năm cuối, Nguyễn Khắc Trường viết ít, nhiều bản thảo dang dở. Ông từng ví
mình như người leo núi: “Đã lên đỉnh cao thì không muốn hạ mình ở những đỉnh thấp
hơn”.
Trước khi
qua đời (2/10/2024), ông vẫn nhắc đến giấc mơ cải thiện đời sống người dân quê.
Ông ra đi thanh thản, coi cái chết như một nụ cười buông bỏ.
10.
Nguyễn Khắc
Trường nhận nhiều phần thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1991, Giải thưởng
Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật 2007, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất…
Nhưng phần thưởng lớn nhất là sự kính trọng của đồng nghiệp và tình yêu bạn đọc.
Tang lễ
tháng 10/2024 tại Nhà tang lễ Quốc gia, nhiều thế hệ nhà văn và độc giả đến tiễn
biệt. Người ta không chỉ nhớ đến "Mảnh đất lắm người nhiều ma", mà
còn nhớ đến một Nguyễn Khắc Trường đời thường: bao dung, thẳng thắn, trọn vẹn
chữ nghĩa và tình người.
Vĩ thanh
Nguyễn Khắc
Trường đã sống một đời xứng đáng: là người lính, người chồng, người cha, nhà
văn, và người làm sách. Ông để lại tác phẩm bền lâu và bài học nhân cách.
Tròn 1 năm
ngày ông ra đi, nhưng ánh sáng từ trang văn, từ nhân cách ấy vẫn còn, đau đáu
mà kiêu hãnh - như chính nhan đề mà đồng nghiệp dành cho ông: “Ánh sáng đau đáu
và kiêu hãnh”.
Nguồn: Văn Nghệ Công An

