Nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa nhận định: "Ngoài làm
thơ, Tố Hữu còn là một nhà lãnh đạo lớn của đất nước. Không biết đấy có phải là niềm
may mắn cho ông hay là nỗi bất hạnh của ông, vì ông không được người đời nhìn bằng
con mắt thật. Một thời, khi nói đến thơ ông, người ta thường chỉ khen mà không
chê, không thấy những khiếm khuyết mà ông cần hoàn thiện để vươn tới cõi vĩnh cửu".
ĐỌC LẠI
THƠ TỐ HỮU
TRẦN
ĐĂNG KHOA
Có lần bàn
về giá trị của văn học nghệ thuật, nhà thơ, nhà phê bình nghiên cứu Xuân Diệu
có nói rất sâu sắc rằng: “Một tác phẩm nào đó mà sống được đến 50 năm thì đã có
thể xem như nó thuộc về cõi vĩnh viễn”. Đấy là chiêm nghiệm của Xuân Diệu, cách
tính của Xuân Diệu trong thời đại của ông, khoảng những năm 70, 80 trước đổi mới.
Còn bây giờ, những giá trị giả tàn lụi nhanh lắm. Có khi chỉ năm trước, năm sau
đã không còn đọc lại được nữa rồi. Bởi thế có nhà phê bình bảo: Bây giờ, tác phẩm
chỉ cần trụ được 5 năm thì đã có thể xem như nó thoát được cái nạn “ô xi hóa” của
thời gian.
Thơ Tố Hữu
không phải đã trải qua thử thách 5 năm, hay 50 năm, mà đã trên 80 năm “tuổi thọ”,
cùng với bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thăng trầm của cõi đời dâu bể. Có những
giá trị tưởng như bất biến mà rồi đã mất tăm, lại có những vẻ đẹp xanh xao, mỏng
mảnh ta tưởng sẽ tan biến mà rồi nó vẫn tồn tại, dù tồn tại vẫn với cái dáng vẻ
mỏng mảnh và xanh xao như thuở nó ra đời. Tố Hữu cũng như nhiều nhà thơ của
chúng ta hôm nay, cũng phải chịu sự thử thách và sự đào thải rất nghiệt ngã của
thời gian. Ngoài làm thơ, ông còn là một nhà lãnh đạo lớn của đất nước.
Không biết
đấy có phải là niềm may mắn cho ông hay là nỗi bất hạnh của ông, vì ông không
được người đời nhìn bằng con mắt thật. Một thời, khi nói đến thơ ông, người ta
thường chỉ khen mà không chê, không thấy những khiếm khuyết mà ông cần hoàn thiện
để vươn tới cõi vĩnh cửu. Rồi sau này, ở thời đổi mới, có người lại phủi sạch
thơ ông, cho rằng ông chỉ là người minh họa, là người làm công tác tuyên truyền.
Điều ấy
không đúng và rất không khoa học. Ngay ông cũng đã có lần nói với tôi: “Phải thế
nào mới minh họa được chứ! Minh cơ mà. Minh họa nào có tội gì đâu. Ngay Hội họa
thế kỷ 18-19, cũng đã từng có những danh họa nổi tiếng thế giới, những thiên
tài chúng ta ngưỡng vọng, mà tác phẩm của họ cũng là những bức tranh tường
tuyên truyền, minh họa cho Kinh Thánh đấy chứ, như Makennang và rất nhiều thiên
tài khác chẳng hạn. Tôi minh họa tuyên truyền cho Đảng cho Cách mạng đấy!”. Nhiều
sáng tác của ông, tôi tin sẽ còn sống mãi với thời gian. Có được sức sống ấy là
nhờ ở tài năng của ông. Một tài năng lớn.
Khi nhà
thơ Tố Hữu mất, nhà thơ, nhà phê bình thơ Vũ Quần Phương có nói trên truyền
hình một ý mà tôi không sao quên được. Ông bảo: “Cái may mắn của Tố Hữu là ông
đã gặp Đảng và nhờ Đảng mà có thơ ông. Và cũng may cho Đảng, là Đảng đã có được
một Tố Hữu. Và nhờ Tố Hữu mà những đường lối, chính sách, chủ trương chính sách
của Đảng đã đến được với từng người dân. Và rồi nhiều người dân với trình độ
khác nhau, lứa tuổi khác nhau, số phận cũng rất khác nhau nhưng đều có thể đến
được với Đảng, với cách mạng qua những bài thơ của Tố Hữu”.
Và như thế,
có thể nói, Tố Hữu là nhịp cầu nối dân với Đảng, nối Đảng với dân. Và với chính
Tố Hữu, cũng đã có lần ông tâm sự với tôi: “Suy cho cùng, mình cũng không phải
là nhà thơ chuyên nghiệp đâu. Mình là nhà Cách mạng. Cả cuộc đời mình cống hiến
cho Cách mạng. Mình làm thơ cũng là làm Cách mạng, tuyên truyền cho Cách mạng.
Chính Bác Hồ cũng bảo mình làm tuyên truyền đấy chứ. Bài thơ “Ta đi tới”, thoạt
đầu mình viết: Sông Thao sóng đỏ bồi hồi – Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền.
Câu thơ ấy rất đúng với tâm trạng mình. Nhưng Bác bảo: Sao chú về Thủ Đô, Thủ
đô được giải phóng rồi mà câu thơ của chú lại buồn thế. Ông Cụ thích vui, thì
mình vui cùng Ông Cụ: Sông Thao nao nức sóng dồi – Ai về Hà Nội thì xuôi cùng
thuyền…Mình nghĩ, nếu muốn tuyên truyền thì tuyên truyền bằng thơ là hiệu quả
nhất”.
Đúng như
ông nói. Tuyên truyền bằng thơ là hiệu quả nhất. Nhưng phải là thơ Tố Hữu.
Nghĩa là tuyên truyền bằng một tài năng đặc biệt. Thơ ông thường dễ thuộc, dễ
hiểu và dễ nhớ, ai cũng có thể hiểu được, nhớ được. Nhiều bà mẹ ở làng quê hát
đối, hay ru con bằng thơ ông. Nhiều người không biết chữ vẫn thuộc được thơ
ông. Ngay bản thân tôi, ngay từ khi còn rất bé, tôi cũng đã thuộc hầu hết thơ Tố
Hữu, dù không có ý thức học. Vậy mà chỉ đọc đôi ba lần là thuộc. Đấy là điều rất
đặc biệt ở thơ ông. Đó là tính phổ cập rất rộng rãi.
Có dịp đi
công tác lên vùng chiến khu Việt Bắc, tôi thật sự bàng hoàng khi đến đâu tôi
cũng “gặp” ông, cũng thấy thơ ông: Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê, Ỷ La, Sơn Cốt,
rồi Mường Thanh Hồng Cúm, Him Lam…Thơ ông gắn liền với nhiều địa danh của đất
nước. Ông rất giỏi đưa địa danh vào thơ, và địa danh không còn là tên địa
phương mà đã biến thành tình cảm, xúc cảm: “Đẹp vô cùng Tổ Quốc ta ơi/ Rừng cọ,
đồi chè,đồng xanh ngào ngạt/ Nắng chói Sông Lô hò ô tiếng hát/ Chuyến phà dào dạt
bến nước Bình Ca”. Câu thơ hào sảng biết bao! Và tôi thật sự hồi hộp như mình sắp
gặp người thân khi nhìn sang bên đường thấy cột cây số báo còn bao nhiêu cây nữa
thì đến Bến Bình Ca. Và khi Bến Bình Ca thực sự hiện ra trước mắt thì tôi vô
cùng bất ngờ vì thấy cái bến nước ấy nó bé quá. Nó chỉ là khúc sông rừng. Và
nói cho thật đúng thì nó là một con suối lớn. Mùa hạn, nước cạn, lòng sông thu
hẹp lại. Con phả chỉ quay mũi lái đã sang đến nửa sông bên kia. Vậy mà trong
thơ, sao nó mênh mang thế. Con sông ấy bát ngát rộng lớn là nhờ câu thơ Tố Hữu.
Balzac bảo:
Nhà văn bao giờ cũng là người thư ký của thời đại. Nếu nói theo quan niệm như
thế thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Ta có thể lần dở từng trang
thơ Tố Hữu để thấy từng bước đi của cách mạng, kể cả những thăng trầm, hào hùng
và đắng đót. Ta gặp trong thơ ông bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu con người: Cả những
người có tên, rất cụ thể, như Mẹ Suốt, Mẹ Tơm, bà má Hậu Giang, anh Trỗi, bé Lượm,
em Hòa, chị Lý…Rồi cả những con người không tên như bà bủ, bà bầm, rồi chị em
phụ nữ Bắc Giang đi phá đường, tiêu thổ kháng chiến.
Ông có những
câu thơ hay đến lạ lùng mà toàn những địa danh: Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
- Gió qua rừng Đèo Khế gió sang… Nếu có
ai hỏi tôi: Câu thơ ấy hay như thế nào thì tôi không giải thích được. Hay câu
thơ có thể xếp ngang với những câu Kiều đẹp nhất của Nguyễn Du: Ve kêu rừng
phách đổ vàng…Đẹp và tài lắm chứ.
Ông cũng lại
có những câu thơ bình dân, đúng là cái nhìn của chị em phụ nữ nông dân đi phá
đường: Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi – Hố ngang hố dọc chữ y chữ tờ…Chỉ qua hai
câu thơ này, ta biết chị em tham gia phá đường đang theo học ở lớp bình dân học
vụ. Một phong trào rất phổ cập thời bấy giờ: Chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm. Một người chỉ mới biết chữ, cũng đã có thể thành thày giáo tham gia xóa mù
và trở thành “Dũng sĩ diệt giặc dốt”. Cảm ơn Tố Hữu đã lưu lại cho chúng ta biết
được vẻ đẹp của một thời.
Tố Hữu có
nhiều câu thơ rất đẹp và nhiều bài thơ hay. Ngay việc chọn thơ theo từng chủ đề
thì Tố Hữu cũng vẫn rất nổi trội. Ví như viết về Huế chẳng hạn. Đã có bao nhiêu
người viết về Huế. Nhưng Tố Hữu vẫn Huế nhất. Tôi rất thích hai câu thơ của
Nguyễn Trọng Tạo: Sông Hương hóa rượu ta vào uống – Ta tỉnh đền đài nghiêng ngả
say. Câu thơ này, Nguyễn Trọng Tạo ứng tác, buột miệng đọc trong lần uống rượu
với bạn bè văn nghệ Huế. Tôi tiếc nếu Nguyễn Trọng Tạo đầu tư thêm thì anh đã
có một bài thơ tứ tuyệt đặc sắc. Nhưng anh lại bỏ dở nên câu thơ này treo lửng
lơ ngoài hệ thống thơ anh. Một bạn thơ Huế, người cùng uống rượu với Nguyễn Trọng
Tạo bữa ấy đọc cho tôi nghe và tôi thấy mình cần lưu giữ lại cho Nguyễn Trọng Tạo
ở đây, vì đó là hai câu thơ hay nhất trong đời thơ Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng đó
là hai câu thơ hay viết về rượu chứ không phải viết về Huế. Tôi cũng rất thích
hai câu thơ này của Bùi Giáng: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Ngự Bình vẫn đứng bên
bờ Sông Hương”. Chữ “Dạ thưa” đưa vào thơ rất tài, đúng là khẩu ngữ của người
dân Huế, nhưng câu thơ lại viết về thời cuộc chứ không phải viết về Huế. Bài
thơ “Tạm biệt Huế” rất hay của Thu Bồn, có thể nói đấy là bài thơ hay nhất
trong đời thơ Thu Bồn, nhưng đó là bài thơ tình, một nỗi nuối tiếc với một cô
gái Huế. Bài thơ có không gian Huế nhưng vẫn không phải là bài thơ viết trực diện
về Huế.
Viết về Huế
hay nhất, đúng nhất vẫn là Tố Hữu: Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng – Mưa nguồn,
gió biển, nắng xa khơi… thì Huế vô cùng và cũng tài vô cùng. Ông còn có hai câu
thơ rất đặc sắc khi trở về chiến trường Bình Trị Thiên những năm chiến tranh: Nỗi
niềm chi rứa Huế ơi – Mà mưa xối xả trắng trời thừa Thiên. Hay và tài vô cùng.
Tôi khoe với
Tố Hữu: “Nhà thơ Xuân Diệu trước khi mất có một đóng góp rất đáng lưu ý, là ông
đã phát hiện ra vẻ đẹp đặc biệt của thơ Tố Hữu trong việc xử dụng từng cặp từ
điệp: Mà mưa (m/m) xối xả (x/x) trắng trời (tr/tr) Thừa Thiên (th/th). Tố Hữu
ngạc nhiên lắm. Ngạc nhiên đến kinh ngạc: “Ồ thế à? Ừ mà đúng nhỉ. Đúng là từng
cặp một thật!”.
Thuở ấu
thơ, tôi cũng rất thích một bài thơ viết về Huế của Tố Hữu:
“Trên dòng
Hương Giang…
Em buông
mái chèo
Trời trong
veo
Nước trong
veo
Em buông
mái chèo
Trên dòng
Hương Giang…”
Tôi nhớ
năm học lớp 7, tôi học bài thơ này. Thầy hỏi tôi có nhận xét như thế nào về mấy
câu thơ trên. Tôi thưa với thày rằng: Tố Hữu không chỉ làm thơ đâu. Ông còn vẽ
nữa đấy. Ba câu đầu chính là con thuyền. Câu thơ thót dần từ miệng thuyền đến
đáy thuyền. Ba câu tiếp theo là hình bóng của nó in xuống dòng nước trong vắt của
con Sông Hương. Rõ ràng ông có ý đồ nghệ thuật như vậy nên câu thơ lặp lại y
chang và lặp một cách lộn ngược. Thầy giáo khen tôi có phát hiện. Sau này, tôi
kể lại cho Tố Hữu nghe. Ông cũng lại ngạc nhiên: “Ồ thế à? Ừ mà đúng như thế nhỉ.
Đúng là con thuyền và bóng của nó trên mặt nước!”.
Tố Hữu ngỡ
ngàng với cả chính mình. Ông tài mà chính ông cũng chẳng biết mình tài thế nào.
Bây giờ thì đến lượt tôi ngạc nhiên: Hóa ra Tố Hữu làm thơ rất bản năng. Khi viết,
ông hoàn toàn mụ mị. Ông không làm thơ mà ông bị thơ làm. Câu trước gọi câu
sau. Bài thơ hết thì tự nó kết thúc. Nhờ thế, thơ ông rất tự nhiên, giản dị mà
không kém phần sâu sắc.
Có lần,
tôi hỏi Tố Hữu: Nếu chỉ chọn một bài và chỉ một bài thôi thì chú chọn bài thơ
nào của chú? Tố Hữu bảo: Bài “Bác ơi”.
Qua đó đủ
biết Tố Hữu yêu Bác và thương Bác đến mức độ nào. Tố Hữu viết nhiều về Bác và
cũng viết chân tình nhất về Bác. Khi Bác mất, Chế Lan Viên: Chớ để quân thù
nghe ta khóc ơi em – Vết thương phải thành sẹo ngay đi mà đánh giặc- Ta đã đau
rồi đừng để đau thêm – Ta còn cả một đời ta mà khóc Bác. Huy Cận có bài Bác Hồ
ơi! Còn Tố Hữu là Bác ơi! Tiếng gọi, hay tiếng nấc?
“Trái bưởi
kia vàng ngọt với ai?
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài?”
Hồi đó tôi có nghe ai đó nói: Tại sao mà nẫu ruột thế!
Bác mất không còn ai nữa ư? Còn Bộ Chính trị. Còn Trung ương Đảng, còn nhân dân
nữa chứ…
Khổ, đừng chi li quá như thế! Đây là tiếng khóc. Tiếng
khóc người thân. Là con khóc cha. Khi người thương yêu nhất mất thì không còn
gì nữa cả. Hãy để ý đám tang ở thôn quê, đặc biệt các bà nhà quê khóc cha thường
cứ hay kể nể: Cha thương con thế nào, con chăm cha ra sao, rồi ối cha ơi, bây
giờ cha chết rồi thì con còn biết sống với ai, con ở với ai… Cả bài thơ Tố Hữu
là tiếng khóc ấy, là lời kể ấy. Chuyện nọ dọ chuyện kia. Nhưng câu chuyện thật
và tình cảm thật. Vì thế, bài thơ làm xúc động người đọc.
Xoay quanh chuyện về Bác có một chi tiết rất đáng lưu
ý. Tố Hữu bảo: “Thực ra Bác mất đúng 9h47 phút ngày 2/9 năm 1969 chứ không phải
3/9 như thông báo hồi đó đã đưa. Nhưng Bác lại mất đúng ngày Quốc Khánh, là một
ngày vui của dân tộc, vì thế chúng ta phải lùi lại một ngày. Quyết định thế rồi.
Mình phải tuyệt đối tuân theo. Nhưng mình còn là nhà thơ. Mình phải báo cho dân
biết. Báo thế nào để dân biết mà mình vẫn không mắc lỗi. Thế là trong “Theo
chân Bác”, sau khi kể Bác mất, mình hạ một câu thơ: “Còn đây trong mát sáng
Tuyên ngôn”, thế là vẫn đúng ngày 2/9”.
Tố Hữu đúng là một người thư ký của thời đại. Một ngòi bút trung thực và trong
sáng. Ông cũng rất tài trong việc dùng những con chữ đơn lẻ, dù những chữ ấy chẳng
có gì đặc sắc, thậm chí còn rất mòn cũ. Ví như chữ thế gian chẳng hạn. Nhưng
khi nó đứng trong đội hình của câu thơ, và đứng đúng chỗ thì lại hay vô cùng:
“Còn đôi
dép lốp mòn quai gót
Bác vẫn
thường đi trên thế gian”.
Với Tố Hữu,
chẳng có chữ nào là chữ cũ. Một chữ cũ mèm, bạc phếch, nhưng đặt đúng chỗ vẫn rất
linh diệu. Ví như chữ “cõi” chẳng hạn: “Anh dẫn em vào cõi Bác xưa”. Tố Hữu là
thế.
Tôi muốn
nói thêm về mảng thơ viết trong tù của Tố Hữu. Đây là mảng thơ rất quan trọng.
Tố Hữu lấy tên là “Xiềng xích”. Cũng có lần tôi hỏi ông, nếu chọn một bài thơ
hay nhất viết trong tù thì chú chọn bài nào? Tố Hữu thích nhất “Con cá chột
nưa”. Nhưng đọc “Con cá chột nưa” tôi chỉ thấy sự trung thành của ông đối với
cách mạng thôi. Còn muốn tìm nghệ thuật thì lại ở những bài thơ khác. Tố Hữu
không phải chỉ có một bài mà đến ba bài. Đó là “Tiếng hát đi đày”, “Nhớ đồng”
và đặc biệt là “Khi con tu hú”. Tôi rất phục cái bài thơ “Khi con tu hú”, bởi
vì đây là một bài thơ lục bát rất ngắn. Bài thơ viết về tù ngục mà không có một
chữ tù nào:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”
Bài thơ bắt đầu bằng một âm thanh. Đó là tiếng kêu của
con chim tu hú. Điều này rất đúng vì người tù ở trong ngục, không nhìn thấy được
mà chỉ nghe thôi. Tiếng chim gợi cảnh sắc và toàn bộ mùa hè hiện lên bàng bạc,
nó không rõ nét vì đây không phải cảnh thật mà chỉ là ký ức trong tâm trí người
tù. Và khi xuất hiện tiếng diều sáo
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Đã có rất nhiều người bàn về câu thơ này. Có một nhà
phê bình cho rằng, đấy là con chim diều chim sáo. Nhưng không phải. Chim diều
hâu đâu có hót mà người tù thấy được. Vả lại diều với sáo không bao giờ bay đôi
với nhau. Thấy sáo, diều thịt liền. Diều sáo ở đây là cái diều có gắn sáo, một
trò chơi thông dụng thường có ở mùa hè. Con diều nhào lộn trong khoảng trời tự
do cao rộng đã đánh thức người tù. Và bài thơ hiện lên lồng lộng một người tù,
một chiến sĩ cộng sản đầy nhiệt huyết, đầy sức mạnh mà bị giam hãm, trong không
khí rất ngột ngạt, bức bách :
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi.
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Câu thơ báo hiệu sự vượt ngục của Tố Hữu sau này để trở
về với cuộc chiến đấu sinh tử. Trong bài thơ “Tiếng hát đi đày”, ông cũng cũng
có hai câu thơ:
“Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm mấy đêm đường?”
Và sau đó, quả như câu thơ đầy khí phách ấy, Tố Hữu đã
vượt ngục trở về tiếp tục công cuộc cách mạng năm 1942. Cũng viết về tù, trong
bài “Tiếng hát đi đày”, Tố Hữu có câu thơ rất chân thực: “Người đi quấn áo chen
chân”. Nhưng trước đây, tất cả các nhà xuất bản đều in nhầm là: “Người đi quần
áo chen chân” ngay Xuân Diệu đi bình khắp nơi cũng vẫn đọc “quần áo chen chân”
dù ông vẫn ngờ ngợ câu thơ này, tại sao là quần áo lại chen với chân? Quần áo
nó che cho cái chân chứ, nó cũng làm cho cái chân đẹp lên, ấm lên chứ, sao quần
áo lại chen với chân? Ông không hiểu nhưng ông cứ nghĩ Tố Hữu đã viết thì không
thể viết cẩu thả được.
Mãi sau này Xuân Diệu mới biết, hóa ra là in nhầm.
“Người đi quấn áo” thì mới là áo của người tù, đấy là cái áo không thể mặc được
nữa. Áo không còn ra áo, nó chỉ là tấm tã thôi, nó rách hết rồi, không mặc được
nữa, không xỏ được tay vào áo nữa, nên người ta quấn cái mảnh vải đó, quấn cái
tấm giẻ đó vào người để cho nó ấm, quấn áo là vì thế.
Thực tiễn trong tù còn có những cảnh ngộ rất đặc biệt
và xúc động. Người chiến sĩ nào khi bị tử hình cũng có bữa cơm cuối cùng. Nhưng
các chiến sĩ đều không ăn, mà nhường lại cho anh em, để còn có sức chiến đấu.
Nhiều người còn cởi áo mình trao cho anh em rồi chỉ mặc cái quần cộc ra pháp
trường. Điều này ta cũng tìm thấy trong thơ Tố Hữu: “Chết còn cởi áo cho nhau/ Miếng
cơm dành để người sau ấm lòng”.
Những câu thơ như thế làm sao mà cũ được. Vì thế, tôi tin, dù có bị thời gian đào thải thế nào, Tố Hữu vẫn có những bài thơ, câu thơ sẽ còn lại mãi.