‘Vọng
âm sắc màu’ không dày lắm, chỉ tròm trèm 200 trang in. Thế nhưng, ‘Vọng âm sắc
màu’ được chú ý vì bây giờ rất ít sách viết về mỹ thuật. Hơn nữa, tác giả ‘Vọng
âm sắc màu’ là họa sĩ Đỗ Phấn có tư cách của người trong cuộc, thì càng xứng
đáng để độc giả quan tâm.
ĐỖ
PHẤN NHIỀU SUY TƯ VỚI “VỌNG ÂM SẮC MÀU”
TUY HÒA
Một thực tế
đời sống hội họa nước ta là thưa vắng nhà phê bình. Sau khi nhà phê bình Thái
Bá Vân (1934-1999) ra đi, thì nhân vật được tin cậy là nhà phê bình Nguyễn Quân
(sinh năm 1948) cũng không còn tung hoành vì gánh nặng tuổi tác. Lĩnh vực mỹ
thuật bây giờ không có nhà phê bình nổi trội, nên các họa sĩ có năng khiếu viết
lách phải đảm đương vai trò không mấy đơn giản này. Cuốn sách “Vọng âm sắc màu”
của họa sĩ Đỗ Phấn có thể xem như một ví dụ thú vị.
Họa sĩ Đỗ
Phấn là con trai của nhà báo Đỗ Ngọc Thường – Vương Mộ Thanh (1920-2001) nên năng
khiếu bẩm sinh giúp ông cầm bút cũng thông thạo như cầm cọ. Ông bày tỏ: “Với
tôi, hội họa hay văn chương không có khoảng cách nhiều lắm. Truy lùng cái đẹp
luôn là tâm niệm của tôi. Cái đẹp không chia buồn vui cả về hình ảnh lẫn suy tưởng.
Nó chỉ có một điểm đến duy nhất là làm lay động lòng người”
Họa sĩ Đỗ
Phấn cũng là nhà văn Đỗ Phấn quen thuộc với giới mộ điệu qua các tiểu thuyết và
tùy bút như “Dằng dặc triền sông mưa”, “Mùi trần”, “Đi chơi Bờ Hồ”, “Bâng quơ một
thời Hà Nội”, “Ngẫm ngợi phố phường”, “Ngồi lê đôi mách với Hà Nội”… Với “Vọng
âm sắc màu”, họa sĩ Đỗ Phấn khiêm tốn chú thích thể loại “tạp ghi mỹ thuật”, nhưng
cuốn sách hoàn toàn có dấu vết một nhà phê bình. Nghĩa là, đọc “Vọng âm sắc
màu”, có thể nhận ra tác giả có sự am tường, sự trải nghiệm, sự ưu tư và sự thẳng
thắn khi đề cập các câu chuyện hội họa hay các gương mặt hội họa.
Vài năm gần
đây, những người quan tâm đến hội họa Việt Nam vô cùng hưng phấn trước những
thông tin về Trường Mỹ thuật Đông Dương. Chỉ tồn tại từ năm 1925 đến năm 1945,
cả thảy 18 khóa chiêu sinh, Trường Mỹ thuật Đông Dương sản sinh nhiều danh họa
và không ít giai thoại. Tuy nhiên, cơn sốt sưu tầm tranh của các họa sĩ xuất
thân Trường Mỹ thuật Đông Dương thì đúng là một ẩn số khó lý giải. Họa sĩ Đỗ Phấn
cho rằng: “Những tác phẩm của Lê Phổ, Mai Trung Thứ gần đây được các nhà đấu
giá danh tiếng thế giới bán ra với giá hàng triệu USD, có thực là chúng đáng
giá đến thế không? Chuyện này không dễ kết luận. Việc định giá của nhà đấu giá
phần lớn dựa trên nhu cầu thị trường chứ không có một thao tác so sánh tối giản
nào với các tác phẩm cùng thời của các họa sĩ châu Âu. Ta nên biết rằng tác phẩm
của các họa sĩ hạng trung ở châu Âu cũng không bao giờ có giá đến như thế. Tiền
triệu USD một bức tranh hình như vẫn là câu chuyện thiểu số, với các họa sĩ tên
tuổi tầm cỡ thế giới. Nếu đã không có căn cứ nào để định giá các tác phẩm của Mỹ
thuật Đông Dương thì vấn đề còn lại chỉ đơn thuần là kỹ thuật PR của các nhà đấu
giá”.
Hào quang
từ Trường Mỹ thuật Đông Dương tạo ra nhiều “bộ tứ” được truyền tụng. Có “bộ tứ”
Trí – Lân – Vân- Cẩn được kiến thiết gồm các danh họa Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường
Lân, Tô Ngọc Vân và Trần Văn Cẩn. Có “bộ tứ” Phổ - Thứ - Lựu – Đàm được quy tụ
gồm các danh họa Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu và Vũ Cao Đàm. Cũng có “bộ tứ”
Sáng – Liên – Nghiêm- Phái được cộng hưởng gồm các danh họa Nguyễn Sáng, Dương
Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm và Bùi Xuân Phái.
Tài năng của
mỗi “bộ tứ” không thể phủ nhận. Thế nhưng, việc ứng xử với từng cá nhân trong bộ
tứ còn phụ thuộc vào thái độ hoặc trình độ của người chơi tranh. Họa sĩ Đỗ Phấn
phân tích: “Không có hội họa nào phục vụ được cho tất cả mọi người. Và càng
không có một họa sĩ duy nhất nào được toàn thể người xem tán thưởng. Thật dễ hiểu
khi ta bắt gặp một bộ sưu tập nào đó có đầy đủ tranh của Nghiêm, Liên, Sáng
nhưng tuyệt đối không có một bức nào của Phái. Không phải vì chủ nhân của nó
kém hiểu biết. Cũng không phải vì họ không có tiền. Lý do duy nhất chỉ có thể
là tranh ông Phái không hấp dẫn họ. Hoặc có người nói thẳng là tranh ông Phái
gây cho họ một nỗi buồn không đáng có, một niềm u uất nào đó mà họ không đáng để
trải qua. Cuối cùng thì mọi suy nghĩ đều đi đến mục đích là tính bất đồng trong
giải trí giữa các bộ phận khán giả. Việc ca ngợi hết lời một ai đó cũng không
làm cho một bộ phận khán giả khác suy suyển cách nghĩ”.
Sống giữa
làng mỹ thuật, lại có sẵn sự chiêm nghiệm của người thông thạo chữ nghĩa, họa
sĩ Đỗ Phấn đưa ra được nhiều đánh giá thuyết phục. Trong “Vọng âm sắc màu”, ông
khẳng định: “Họa sĩ giờ đây có thể sáng tạo tất cả những gì mình muốn, chỉ trừ
việc vi phạm thuần phong mỹ tục hay chính sách của nhà nước. Như thế, mỹ thuật
có lẽ là ngành nghề cập nhật nhất với những sinh hoạt xã hội. Và họa sĩ cũng
không mấy ai còn băn khoăn đến phương hướng sáng tác. Cũng chẳng băn khoăn làm
gì vì những thứ như vật liệu rất dồi dào, đề tài là vô tận. Chỉ còn mỗi việc cuối
cùng thôi, đó là vẽ cho đẹp”.
Khái niệm
“vẽ cho đẹp” không đồng nghĩa “vẽ cho giỏi”. Bởi lẽ, “vẽ cho đẹp” luôn bị chi
phối từ những yếu tố khác. Có họa sĩ “vẽ cho đẹp” không bán được tranh, mà có họa
sĩ “vẽ cho giỏi” lại thu nhập dồi dào. Họa sĩ Đỗ Phấn rạch ròi: “Thuật ngữ
“hàng hóa” dùng trong mỹ thuật, tai hại thay, lại giống như một lời miệt thị.
Dù rằng tranh tượng được mua bán rôm rả hàng ngày thì chắc chắn cũng không có họa
sĩ nào tự nhận tranh của mình là hàng hóa. Có chăng chỉ là trào tiếu cho khuây
khỏa những lúc lao động mệt nhọc. Trong thâm tâm họ hẳn là vẫn nghĩ mình đang cống
hiến cái đẹp cho đời. Thế nhưng, vẫn có nhiều trường hợp bị cơm áo dẫn đường mà
người họa sĩ ấy đã không hề biết mình đã lặp lại chính mình. Ở mức độ sâu rộng
thì có thể được núp bóng dưới một mỹ từ là “phong cách”. Ở mức cụ thể cho từng
tác phẩm thì lại được biện minh rằng thị trường có nhu cầu”.
“Vọng âm sắc
màu” cũng dành nhiều trang để nói về công tác đào tạo mỹ thuật. Họa sĩ Đỗ Phấn
nêu một bất cập: “Ở những trường mỹ thuật hàn lâm hình như họ coi việc vẽ minh
họa là quá dễ so với những gì được đào tạo về hình họa, bố cục và tranh trí. Đó
có thể là một nhầm lẫn. Vẽ minh họa chưa bao giờ là một việc dễ. Nhiều họa sĩ
có tay nghề hết sức vững vàng nhưng không chắc đã vẽ nổi một minh họa cho ra hồn”.
Tuy nhiên, theo họa sĩ Đỗ Phấn, đào tạo mỹ thuật còn phải hướng đến tương lai bền
vững hơn: “Cách bắt đầu dạy mỹ thuật cho trẻ con đúng đắn sẽ nuôi dưỡng những
ham thích sáng tạo của chúng. Vài đứa tiếp tục những ham muốn ấy khi trưởng
thành có thể đào tạo thành họa sĩ. Số còn lại (đông hơn) sẽ trở thành những
khán giả có hiểu biết ngay từ thơ ấu. Vấn đề đặt ra cho một nền mỹ thuật bất kỳ
đâu cũng nhằm vào đối tượng là người thưởng thức. Nhiều khi người thưởng thức
còn quyết định sự ra đời của một trào lưu hay trường pháp nghệ thuật. Và người
thưởng thức luôn là thước đo đúng đắn nhất cho nghệ thuật đương thời. Muốn nhìn
rõ mức độ thành công của một nền nghệ thuật, không có cách gì tốt hơn quan sát
công chúng nghệ thuật. Xem thị hiếu của họ đang nằm ở khu vực nào. Thị hiếu
không được thông qua rèn luyện từ nhỏ là thứ rất dễ phát giác”.
Từ năm 1962,
lúc 6 tuổi, họa sĩ Đỗ Phấn đã được bố chở đến chơi nhà họa sĩ Nguyễn Đức Nùng
(1914-1983). Cho nên họa sĩ Đỗ Phấn tích lũy nhiều dữ kiện của các họa sĩ đàn
anh. Đó là cơ sở để ông nhận xét thấu đáo về nhiều tài năng mỹ thuật. Khi nhìn
nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) ở góc độ họa sĩ, ông không ngần ngại kết luận: “Một
người được học vẽ rất ít bằng cách trải chiếu dự thính ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương như Văn Cao hoàn toàn có vị trí ngang hàng như những bậc thầy mỹ thuật
tốt nghiệp trường này. Thậm chí có nhiều họa sĩ được cho là thành đạt trong giới
hội họa nước nhà, còn phải xếp sau Văn Cao vài bậc trong công việc vẽ minh họa”.
Bằng tư cách một nhà phê bình, trong “Vọng âm sắc màu”, họa sĩ Đỗ Phấn có nhiều nhận xét chuyên môn đáng để tham khảo. Ví dụ, về họa sĩ Trần Lưu Hậu (1928-2020) thì ông ca ngợi “Lối vẽ biểu hiện có pha chút trừu tượng của ông đã ảnh hưởng đến khá nhiều học trò. Tuy nhiên để đạt đến độ nhuần nhuyễn như ông, thì chưa có ai”. Tương tự, về họa sĩ Mai Long (1930-2024) thì ông khái quát: Những sáng tác của ông cho đến cuối đời cũng hiếm khi đi ra khỏi mảnh đất sương khói bình yên của vùng núi phía Bắc. Ông chọn chất liệu lụa huyền ảo là có lý do như vậy”./.