Người lính ấy trưởng thành trong khói lửa chiến tranh và tận tụy trong xây dựng hòa bình, vừa qua đời ở tuổi 70, gửi lại những dòng thơ lục bát bồi hồi thương nhớ.


Người lính ấy là nhà thơ Trần Trí Thông, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 18 tuổi, người lính ấy rời quê hương Hải Phòng để góp phần cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Sau năm 1975, người lính ấy lại tiếp tục cùng đồng đội lên đường làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia.

Ký ức một thời thanh xuân, được ông viết lại bằng tình thương của người mẹ tiễn đưa đứa con nhập ngũ: “Bập bùng lửa bén rơm xa/ Gạo khuya Mẹ đãi thơm ra tháng mười/ Lung linh một dáng Mẹ ngồi/ Giật mình. Thấy bóng Mẹ vời vợi cao/ Bầy gà giục sáng nôn nao/ Mùi thơm nếp cái rước vào cánh hoa/ Vun tròn tay Mẹ nết na/ Mo cau nắm cả tiếng gà sang canh/ Ngày mai mỗi bước quân hành/ Có ò…o…dậy hừng đông tiếng gà”.

Hình ảnh tiếng gà trong ba lô vừa chất phác vừa lãng mạn, đã theo chân người lính ấy từ chiến tranh đến hòa bình. Nghỉ hưu ở Tổng Công ty dệt may Việt Thắng, ông vẫn tích cực tham gia công tác tại địa phương với bộ trang phục cựu chiến binh. Hàng xóm không mấy người biết ông là nhà thơ Trần Trí Thông, nhưng kính trọng ông vì vai trò một bí thư khu phố rất mẫn cán tại phường An Nhơn, TP.HCM. Bí thư khu phố Trần Trí Thông thường cười hiền lành, mỗi khi giải quyết xong một vụ vợ chồng xung đột cãi vã ầm ĩ, hay một vụ ca sĩ nghiệp dư cao hứng hát karaoke vang vọng nửa đêm.

Ít ai biết, người lính ấy, bí thư khu phố khiêm cung và tháo vát ấy, luôn mang một trái tim thi sĩ. Hai thập niên gần đây, ông xuất bản 7 tập thơ và một trường ca “Mặt trận gần phía trước”. Ông định vị trong lòng đồng nghiệp và công chúng thi ca một nhà thơ Trần Trí Thông sở trường thể thơ truyền thống dân tộc Việt Nam: “Theo câu lục bát tôi về/ Trả sông con sóng trả đê cánh diều/ Thương đồng đất mẹ bao nhiêu/ Chưa qua cơn lũ đã chiều heo may/ Xước chân vết cỏ gai dày/ Em cầm nắng đẩy cho gầy bóng tôi”.



Lục bát Trần Trí Thông vẫn thuộc dòng chảy lục bát chân quê. Những hình ảnh rất quen thuộc, những ngôn từ cũng rất quen thuộc, nhưng nghĩa tình sâu lắng khiến ông có được những câu thơ đắm đuối: “Cau xanh để mẹ ăn trầu/ Nón bài thơ để che đầu nắng mưa/ Cải ngồng dành để muối dưa/ Em sinh ra để cho vừa lòng ai”.

Phẩm chất đôn hậu của nhà thơ Trần Trí Thông thể hiện trong thơ những niềm bồi hồi khôn nguôi. Ông ân cần với mẫu thân “Mẹ đi chợ lúc còn đêm/ Canh gà thôi thúc, mái đền trăng treo/ Nhà tôi nghèo vẫn cứ nghèo/ Bao giờ nước nổi cho bèo dạt lên?”. Ông san sẻ với cố nhân “Đồng chiều vướng víu cỏ hoang/ Gặp nhau cứ ngỡ vừa quăng tay chài/ Ngày xưa hoa huệ, hoa nhài/ Chân bùn em lội dọc bài thơ anh”. Và ông đồng cảm với Thúy Vân đã thay Thúy Kiều chắp nối duyên nợ trớ trêu “Vội vàng trúc ghép vào mai/ Gánh đời chị đặt mỏi vai em rồi/ Ngày như khoai sượng luộc ôi/ Rèm buông là thấy đất trời đổ mưa/ Lược thưa bán dưới cổng chùa/ Lồng vàng con yến nhớ mùa heo may/ Tình em trái ép chín cây/ Đâu bằng trái cấm chị ngày còn xanh”.

Cứ thế, người lính ấy, lặng lẽ viết. Ông hiếm khi xuất hiện trên văn đàn ồn ào, dù ông có tập thơ “Tôi, em và một” từng được trao tặng thưởng của Hội Nhà văn TP.HCM. Ông đứng ngoài mọi ganh đua, để thơ ông thủ thỉ “Em ơi đêm đã khuya rồi/ Heo may đã gọi cuối trời hanh hao/ Nắng thu khép cửa mưa rào/ Gói trăng tháng tám giấu vào yếm em”.

Đêm 29/10, người lính ấy đã ra đi vì bạo bệnh. Giã biệt dương gian, người lính ấy vẫn còn tiếng gà gáy trong ba lô, và những vần điệu lục bát nôn nao “Tháng mười sao cứ mỏng manh/ Tiếng ai hay gió lay mành chiêm bao/ Tháng mười nhè nhẹ hanh hao/ Thêm mùa cốm mới gởi vào tương tư”.

                                                                            LÊ THIẾU NHƠN