Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cho rằng: Chúng ta đã có một số tác phẩm lớn có thể được gọi là “đỉnh cao”, nhưng những tác phẩm đó lại không được lòng giới quản lý, dẫn đến sự nhụt chí của các nhà văn. Có lẽ chính vì vậy mà những tác phẩm như thế là rất hiếm.


 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC HÔM NAY

(Trích tham luận Hội thảo "Văn học Việt Nam sau 1975")

NGUYỄN VĂN DÂN

Mặc dù lĩnh vực sáng tác của ta từ sau ngày thống nhất đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng mỗi lần hội nghị, chúng ta lại đánh giá rằng văn học nước nhà chưa có/ hay ít có những tác phẩm đỉnh cao, và quy nguyên nhân của việc này cho năng lực sáng tác của các nhà văn. Tuy nhiên, nhìn lại kết quả sáng tác của các nhà văn, tôi cho rằng việc quy kết này là chưa thoả đáng.

Trên thực tế, theo tôi chúng ta đã có một số tác phẩm lớn có thể được gọi là “đỉnh cao”, nhưng những tác phẩm đó lại không được lòng giới quản lý, dẫn đến sự nhụt chí của các nhà văn. Có lẽ chính vì vậy mà những tác phẩm như thế là rất hiếm. Có thể gọi đây là "vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao". Vậy bản chất của vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao là gì?

Ta hãy nhìn rộng ra thế giới để tìm sự khác biệt giữa các kiệt tác với sáng tác văn học Việt Nam hiện đại. Chẳng hạn, ta hãy nhìn vào những tác phẩm đoạt giải Nobel và các giải thưởng quốc tế danh giá khác trên thế giới để xem các tác giả của chúng có điểm gì khác so với chúng ta. Theo tôi, cái khác biệt quan trọng nhất giữa họ với chúng ta là ở quan niệm nghệ thuật mà nổi bật là quan niệm về con người: đó là họ quan tâm đến “thân phận con người”. Chúng ta đã có sự thay đổi quan trọng theo tuyên bố của Nguyễn Minh Châu là chuyển từ “viết cho lãnh đạo” sang “viết cho dân chúng”, nhưng thực sự là khi viết cho dân chúng, nhà văn của chúng ta mới chỉ quan tâm đến “số phận cá nhân” mà ít quan tâm đến “thân phận” của con người, của dân tộc.

Năm 1933, nhà văn Pháp André Malraux xuất bản cuốn tiểu thuyết La Condition humaine, đoạt giải Goncourt danh giá và làm cho ông nổi tiếng. Cuốn tiểu thuyết này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành một nguồn cảm hứng chủ chốt cho chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Pháp và châu Âu. Nhiều nước đã dịch đúng nghĩa tên cuốn sách. Việt Nam cũng dịch đúng là “Thân phận con người”. Riêng trong tiếng Anh có một cách dịch chưa sát là “Man’s Fate” (“Số phận con người”). Hiểu cho sâu sắc thì phải thấy rằng “số phận” chỉ là trường hợp cụ thể của “thân phận”. Thân phận liên quan đến điều kiện và hoàn cảnh xã hội của con người và nó mang tính đại diện có ý nghĩa lịch sử - xã hội hơn là số phận, đó là điều mà chủ nghĩa hiện sinh rất tâm đắc.

Nhân vật Joseph K. của Kafka và Meursault của Camus chính là những “thân phận” của thời đại chứ không phải số phận riêng lẻ của một ai. Lukács, nhà mỹ học người Hungary, thì coi những “thân phận” này là một loại “nhân vật chính”, một đặc trưng hình thức của tiểu thuyết và nó được ông định nghĩa là “nhân vật có vấn đề” (Lý luận tiểu thuyết [1916]). Trong tinh thần đó, các nhà văn lớn trên thế giới thường trăn trở về thân phận con người để viết nên những tác phẩm lớn của nhân loại. Và chính những tác phẩm viết về thân phận con người, về loại “nhân vật có vấn đề”, là một loại tác phẩm làm cho nền văn học trở thành văn học lớn.

Và như vậy, việc những nền văn học nào (như văn học Việt Nam ngày nay) chỉ có bóng dáng của số phận con người mà thiếu vắng những tác phẩm về thân phận con người cũng có thể được coi là một nguyên nhân làm cho văn học không lớn được. Nên biết rằng khi con người nhận ra rằng số phận thì ngắn mà thân phận thì dài thì bi kịch của nó sẽ xuất hiện. Bi kịch này trở thành phi lý khi một dân tộc không nhận thức được thân phận của mình là gì. Khi một dân tộc nhận thức được điều phi lý đó mà không biết làm thế nào để thoát ra thì điều phi lý đó lại biến thành bi kịch. Đó là cái vòng luẩn quẩn hiện sinh muôn thuở của con người và là một chủ đề lớn của văn học phi lý và cũng là một trong những nguyên cớ làm thành những tác phẩm đỉnh cao. Trong tinh thần đó, việc thiếu tác phẩm đỉnh cao và giấc mơ giải Nobel chính là vấn đề tồn đọng của sáng tác văn học Việt Nam hiện nay.

Trong lĩnh vực lý luận - phê bình, các thành tựu đã nhắc đến ở trên không che giấu được một hiện tượng lý luận - phê bình vẫn còn tồn tại dai dẳng đến ngày hôm nay: đó là kiểu lý luận - phê bình theo truyền thống tuyên giáo, là kiểu chỉ làm nhiệm vụ diễn giải cho đường lối chứ không hoặc ít có lý luận học thuật chuyên môn. Nó cũng chính là loại văn học “viết cho lãnh đạo” chứ không phải là “viết cho dân chúng”, và nó chính là một loại “văn nghệ minh hoạ” mà Nguyễn Minh Châu đã muốn viết “lời ai điếu”. Có thể gọi đây là "vấn đề phê bình minh hoạ" cần phải được khắc phục.

Có một vấn đề tồn đọng nữa của lý luận - phê bình liên quan đến vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao đã nói ở trên trong sáng tác. Ở một dịp khác, tôi đã nói đến những hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu khắc phục của công tác lý luận - phê bình khi áp dụng các lý thuyết nghiên cứu văn học của thế giới, ở đây tôi chỉ nhấn mạnh một vấn đề tồn đọng liên quan sát sườn đến sáng tác và phát triển văn học: đó là vấn đề nghiên cứu - phê bình theo quan điểm biệt lập. Cụ thể là mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong việc áp dụng các lý thuyết mới, nhưng ngành lý luận - phê bình của nước ta hiện nay nhiều khi chỉ mải mê với các thao tác nghiệp vụ chuyên môn của mình mà không có cái nhìn nghiên cứu so sánh về đối tượng phê bình trên bình diện thế giới.

Thực tế, cái nhìn nghiên cứu so sánh sẽ giúp cho các nhà văn Việt Nam thấy nền văn học của chúng ta đang đứng ở chỗ nào trên trường văn học quốc tế, cho thấy văn học Việt Nam khác biệt ra sao về quan niệm nghệ thuật so với những tác phẩm đỉnh cao của thế giới; cái nhìn so sánh đó cũng sẽ cho thấy vai trò của quan niệm nghệ thuật quan trọng như thế nào trong sáng tác văn học và trong việc giải quyết vấn đề thiếu tác phẩm đỉnh cao để thoả mãn giấc mơ giải Nobel của các nhà văn.

Việc nghiên cứu dành cho một đối tượng khép kín (như phân tích tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học) là cần nhưng chưa đủ. Chúng ta đã có những công trình nghiên cứu lý luận chuyên sâu có giá trị học thuật về một lý thuyết nghiên cứu văn học nào đó, cũng như có những công trình áp dụng lý thuyết khá thành công vào việc nghiên cứu và phê bình đối với văn học Việt Nam. Nhưng nhiều khi việc nghiên cứu khép kín lại gây cho người đọc một ấn tượng cho thấy rằng các nhà lý luận nghiên cứu các hiện tượng văn học chỉ là để thoả mãn nhu cầu nghiên cứu của mình chứ ít quan tâm đến nhu cầu thúc đẩy văn học. Đó có thể được coi là việc nghiên cứu “vì chính nó” chứ không phải “vì văn học”. Thực ra cũng có những công trình nghiên cứu vì văn học, nhưng chúng chỉ giới hạn ở công việc “hiểu văn học” chứ chưa tác động đến văn học.

Với tình trạng văn học “thiếu đỉnh cao” của chúng ta hiện nay, công việc sáng tác rất cần có sự tác động của lý luận - phê bình. Về phía lý luận - phê bình, muốn gây được tác động tích cực trở lại đối với sáng tác, thì nó cần phải có cái nhìn và thao tác so sánh mở rộng, có như thế nó mới cho thấy được sáng tác của ta còn cần cái gì để tạo ra được những tác phẩm đỉnh cao. Vì thế, để khắc phục tình trạng "nghiên cứu theo quan điểm biệt lập", mệnh đề “phê bình để hiểu tác phẩm” cần phải được bổ sung thêm một mệnh đề quan trọng nữa: “phê bình để thúc đẩy sáng tác”.