Góc nhìn của nhà thơ Đặng Huy Giang: Thơ định đề thường được dẫn dắt rất
trực tiếp, đi thẳng vào lòng người. Thơ định đề không thích hợp với
những ai ưa làm duyên làm dáng, coi nặng hình thức mà trống rỗng về mặt nội
dung. Hay nói một cách khác: Thơ định đề thường bất chấp hình thức.
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU THƠ ĐỊNH ĐỀ
ĐẶNG
HUY GIANG
Xuất phát: Lâu nay, thơ
định đề tồn tại như một ý niệm hơn là một khái niệm. Nó là một dạng đặc biệt và
khác lạ của tư duy thơ. Đồng thời, nó cũng là một kiểu thơ khó viết, khó làm. Với
nó, thi liệu nhiều khi không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong của người viết.
Nhận dạng: Về cơ bản, thơ định đề tồn tại đơn lẻ đâu đó, phải rất
mất công mới tìm ra nó. Đơn giản vì nó xuất hiện ở người này người khác, ở bài
thơ này bài thơ khác, rất hiếm khi quy tụ ở một tác giả hoặc ở một tập thơ.
Có thể nhận ra
kiểu thơ này qua những biểu hiện sau: Mỗi bài thơ thường viết không dài, thường
có một hoặc hai câu “chốt”; câu “chốt” thường mang giá trị, ý nghĩa triết lý
nhân sinh sâu sắc, góc cạnh, đôi khi có hình thức như một câu châm ngôn là kết
quả của một quá trình trải nghiệm, chiêm nghiệm; có thể ví mỗi câu thơ như thế
có thể như một vết chém, gậy hiệu ứng chí lý, thảng thốt, động tâm tức thì.
Mỗi câu thơ như thế, cũng có thể ví như một con dao
hai lưỡi, người chơi dao (làm thơ) sẽ đứt tay, nếu như không phải là cao thủ;
bài thơ nào cũng có tứ; đôi khi rất gần với chân lý; đó là thứ thơ cô đặc và kết
tủa; nhiều câu thơ mang giá trị độc lập, có thể đứng một mình, không chịu ảnh
hưởng của cả bài thơ; chỉ những độc giả nào chia sẻ được sự trải nghiệm, chiêm
nghiệm rất cá nhân đã đúc rút ra thành những gì cụ thể, mới thấy thấm thía và
coi nó là một loại thơ có cá tính và mang dấu ấn riêng biệt.
Thực chứng: Từ lâu, trong nước và ngoài nước đã có một số người
làm thơ định đề, coi thơ định đề như là sở thích, sở trường.
Đó là các trường hợp: Vô danh có, hữu danh có. Về vô
danh, có tác giả của một câu ca dao nào đó. Về hữu danh, có các tên tuổi: Vương
Hàn của Trung Hoa; Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ của Việt
Nam; B. Brecht của Đức; W. Szymborska của Ba Lan; Ko un của Hàn Quốc; K.
Lubomirki của Áo; Y. Bonnefoy của Pháp; Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Mai Quỳnh Nam, Thanh Quế...của Việt
Nam.
Cũng có những tác giả chạm đến
thơ định đề, nhưng mới chỉ dừng ở mức triết lý.
Cố nhiên, tôi không có ý nói thơ
định đề có giá trị hoặc ở tầm cao hơn thơ triết lý, mà chỉ muốn nói: Chúng chỉ
bao hàm sự khác nhau mà thôi.
Có thể dẫn chừng bằng những câu: “Dưới công
danh đeo khổ nhục” của Nguyễn Trãi; “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn,
người đến chốn lao xao” của Nguyễn Bỉnh Khiêm; “Bao nhiêu người làm thơ đèo
Ngang/ Mà quên mất con đèo chạy dọc” của Phạm Tiến Duật; “Ta đâu có đề phòng từ
phía những người yêu/ Cây đổ về nơi không có vết rìu” của Hữu Thỉnh; “Sau chiến
tranh/ Những người trở về đều có tội” của Vưxốtxki (nhà thơ Nga); “Biển trăm ngả
có ngả nào trùng lặp/ Anh có thể về, anh cũng có thể không” của Éptusencô (nhà
thơ Nga); “Người dũng cảm không bao giờ chết” của Ximônốp (cũng nhà thơ Nga); “Mọi
cuộc chiến tranh kết thúc/ Chỉ có những bà mẹ là thất bại” của B. Brecht…
“Dưới công danh đeo khổ nhục”, tạm
“giải mã”: Con đường hoạn lộ thường hiểm hóc, đằng sau nỗi vinh là nỗi nhục.
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người
tìm chốn lao xao”, tạm “giải mã”: Ở đời, khôn dại không biết đâu mà lường. Có lắm khi tưởng dại mà khôn, tưởng khôn mà dại.
“Bao nhiêu người làm thơ đèo Ngang/ Mà quên mất con đèo
chạy dọc”, tạm “giải mã”: Một phát hiện độc đáo về thuộc
tính của một con đèo.
“Ta đâu có đề phòng từ phía những
người yêu/ Cây đổ về nơi không có vết rìu”, tạm
“giải mã”: Nhiều khi đau đớn, mất mát bất ngờ đến từ
người thân, không theo quy luật nào.
“Sau chiến
tranh/ Những người trở về đều có tội, tạm “giải mã”: Ý nghĩa lòng nhân bản của những người không chết trận.
“Biển trăm ngả
có ngả nào trùng lặp/ Anh có thể về, anh cũng có thể không”, tạm “giải mã”: Đường
đời vốn phức tạp, không biết đâu mà lường trước được.
“Người dũng cảm
không bao giờ chết” (rút ra từ truyện ngắn “Viên sĩ quan tùy tùng thứ ba”), tạm
“giải mã”: Trong chiến trận, tinh thần của người dũng cảm luôn bất diệt.
“Mọi cuộc chiển
tranh kết thúc/ Chỉ có những bà mẹ là thất bại (rút ra từ lời thoại trong một vở
kịch của B. Brecht): Nói về sự mất mát về mặt bản chất của các cuộc chiến tranh
và người chịu nhiều bi kịch nhất là những người đã sinh ra những người ra trận
(ở cả hai phía).
Để thực chứng cho thơ định đề, trong bài viết này, tôi
chỉ nêu những bài thơ tiêu biểu như là những trường hợp đáng chú ý.
Xin được bắt đầu bằng hai câu ca dao cổ của người Việt:
“Cuộc đời là cuộc đời đi/ Nếu mà dừng lại là đi cuộc đời”.
Chất định đề nằm ở chữ “đi”. Cùng
dùng một chữ “đi”, nhưng “đi” trước là “vận động”, “đi” sau là chết’. Nói tóm lại,
cuộc đời là một sự vận động không ngừng, không vận động thì chắc chắn sẽ đi vào
ngõ cụt.
Tiếp theo là “Khúc hát Lương
Châu” của Vương Hàn (bản dịch của Trần Quan Trân): “Bồ đào rượu ngát chén lưu
ly/ Toan nhắp tỳ bà đã giục đi/ Say khướt sa trường anh chớ mỉa/ Xưa nay chinh
chiến mấy kẻ về”.
Chất định đề nằm trong câu chốt:
“Xưa nay chiến chiến mấy kẻ về”, nói về tính khốc liệt, một mất một còn của nhiều
cuộc chiến.
Tiếp theo là Bài thứ 20 trong “Quốc
âm thi tập” của Nguyễn Trãi: “Ở thế nhiều phen thấy khóc cười/ Năm nay tuổi đã
ngoại tư mươi/ Lòng người một sự yếm chưng một/ Đèn khác mười thu lạnh hết mười/
Phượng những tiêu cao, diều hãy liệng/ Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi/ Ai ai đều
có hai con mắt/ Xanh bạc dầu chưng mặt chúng người”.
Chất định đề nằm trong câu thứ
sáu: “Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi”, nói về tuổi thọ của những vật cao quý
và tuổi thọ của những vật tưởng như tầm thường (nghĩa đen). Còn theo nghĩa bóng: Có khi có
những cái khác thường thì chóng lụi tàn, còn những cái bình thường hoặc tầm thường
lại còn mãi.
Tiếp theo là bài “Không đề (3)” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Có quyền thì có của người cho/ Mất vốn chi ru hòa đắn đo/ Ang
thịt mỡ bùi, ruồi đến đỗ/ Bát bồ hòn đắng, kiến đâu bò/ Người nhiều hầu hạ nên
quân tử/ Ta ít đua chen cũng trượng phu/ Ghét thế tình rằng đạm bạc/ Ai từng nước
lã quấy lên hồ.
Chất định đề nằm trong hai câu:
“Ang thị mỡ bùi, ruồi đến đỗ/ Bát bồ hòn đắng, kiến đâu bò”, nói về ở đời, con
người ta thường tìm đến cái lợi (dù là nhỏ) cho mình, ít có người tìm đến những
chỗ không có cái lợi.
Tiếp theo là bài “Vịnh thế thái
nhân tình của Nguyễn Công Trứ: “Thế thái nhân tình gớm ghiếc thay/ Lạt nồng:
Trông chiếc túi vơi đầy/ Hễ không điều lợi: Khôn thành dại/ Đã có đồng tiền: Dở
cũng hay/ Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi/ Hẳn hoi, không hết một bàn tay/ Suy
ra cho kỹ, chi hơn nữa/ Bạc quá vôi mà mỏng quá mây”.
Chất định đề nằm trong hai câu:
“Hễ không điều lợi: Khôn thành dại/ Đã có đồng tiền: Dở cũng hay”, nói về cái sự
thủ lợi ở đời và nói về thế mạnh của đồng tiền.
Tiếp theo là bài “Không đề” của
Tagore: “Chúa cũng tự tìm mình trong
sáng tạo”.
Chất định đề của bài thơ nằm
trong toàn bài (bài thơ chỉ có mỗi một câu), nhằm đề cao sự không ngừng thay đổi,
không ngừng làm mới trong quá trình tìm kiếm cái ngã, cái tôi của mỗi cá nhân
dù ở bất kỳ vị trí nào trong xã hội.
Tiếp theo là B. Brecht với
chùm bài ba bài: “Nếu hòn sỏi nói”, “Mặt nạ kẻ ác”, “Ca ngợi chủ nghĩa cộng sản”.
“Nếu hòn sỏi nói”: Khi bạn tung hòn sỏi lên trời/
Hòn sỏi nói: Tôi rơi về đất/ Bạn tin hòn sỏi kia nói thật/ Nếu có ai ném bạn xuống
nước/ Chắc chắn bạn sẽ bị ướt/ Nếu có cô gái viết thư và hẹn giờ đến gặp/ Thì bạn
chớ vội tin/ Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên.
“Mặt nạ kẻ ác”: Trong buồng tôi treo một
điêu khắc gỗ/ Mặt nạ cá thân Nhật Bản thếp vàng/ Mạch máu hằn trên trán nhắn khốn
khổ/ Tôi nhìn nó cảm thông/ Làm kẻ ác khó nhọc vô cùng.
“Ca ngợi chủ nghĩa cộng sản”: Chủ nghĩa cộng sản hợp lẽ phải,
ai cũng hiểu được/ Nó thực dễ dàng/ Anh không phải kẻ bóc lột, anh hiểu được
thôi/ Nó có lợi cho anh, anh cố gắng tìm hiểu nó/ Kẻ ngu ngốc gọi nó là ngu ngốc,
kẻ bẩn thỉu gọi là bẩn thỉu/ Nó chống lại sự bẩn thỉu và ngu ngốc/ Kẻ bóc lột gọi
nó là tội ác, nhưng chúng ta biết rằng, nó chấm dứt tội ác/ Nó không phải sự điên cuồng, nó chấm dứt sự điên cuồng/ Nó không phải sự hỗn loạn, mà là trật tự/ Nó là cái đơn giản, khó làm.
Chất định đề của bốn bài thơ trên
nằm trong các câu: “Nếu có cô gái viết thư và hẹn giờ đến gặp/ Thì bạn chớ vột
tin/ Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên (tất yếu của xã hội khác với tất
yêu của tự nhiên); “Làm kẻ ác khó nhọc vô cùng” (vì luôn phải có âm mưu, thủ đoạn
nên kẻ ác luôn luôn vất vả); hai câu cuối trong “Ca ngợi chủ nghĩa cộng sản” đã
đúc rút được bản chất của chủ nghĩa cộng sản là điều đơn giản nhưng khó làm.
Tiếp theo là W. Szymborska với
“Không có gì hai lần”: Không có gì xảy ra hai lần/ và sẽ không bao giờ có cả/ vì
thế mà chúng ta/ đã sinh ra như những kẻ vụng về/ và sẽ chết như chưa từng nếm
trải/ Chúng ta - những học trò của tột cùng ngu dại/ dưới mái trường thế gian/ đành
khoanh tay/ chúng ta sẽ không thể làm/ cho một mùa đông, mùa hè lặp lại/ Không
có ngày nào lặp lại/ không có hai đêm
như nhau/ không có hai nụ hôn, hai ánh mắt nhìn giống hệt/ Hôm qua, khi rất gần
ai đó gọi tên anh/ em thấy mình, như một bông hồng rời vào qua ô cửa nhỏ/ Hôm
nay, khi ở cùng anh đó, em đã quay mặt vào tường/ Hoa hồng ư? Bông hồng ấy ra
sao/ Có phải hoa? Hay chỉ là viên đá/ Vì sao hỡi thế gian nghiệt ngã/ ngươi cứ
khuấy lên một nỗi âu lo/ ngươi đang tồn tại ư? Vậy là ngươi sẽ phải trôi qua/ ngươi
đang trôi qua - đó là điều tuyệt diệu/ Chúng ta ôm nhau, miệng cười/ cố tìm điều
thân thiện/ dẫu biết rằng/ mình khác nhau như hai giọt nước trong veo.
Chất định đề nằm trong ngay tứ của
bài thơ: ‘Không có gì hai lần”, khẳng định mọi hiện tượng, về cơ bản đều khác
biệt, đều chỉ xảy ra một lần và duy nhất, ngay đến “hai giọt nước trong veo”
cũng còn “khác nhau” và đó chính là giá trị lạ thường của cuộc sống.
Tiếp theo là Ko Un với “Tha
phương”: Nếu sự ra đi là con đường trở thành nhà sư/ Thì trở về đích thực là
con đường trở thành Đức Phật/ Nhưng người chỉ đích thực trở về/ Khi đích thực
ra đi.
Chất định đề nằm ở hai câu cuối:
“Chỉ đích thực ra đi mới đích thực trở về”.
Tiếp theo là K. Lubomirski với
chùm bài: “Cái thiện, cái ác”; “Hoàn cảnh”; “Bên em”; “Sách”; “Sự tiến bộ”.
Bài thứ nhất: “Cái thiện/ Cái ác/
Hai đường song song/ Giao điểm ở vô cùng” với hàm ý: Cái ác và cái thiện không
bao giờ gần nhau được. Bài thứ hai: “Đừng trổ nhiều cửa sổ/ Lên bức tường của
anh/ Quá nhiều ánh sáng/ Tường sẽ đổ” với hàm ý: “Thái quá” thường “bất cập”.
Bài thứ ba: “Chúng ta chặt đứt tay/ Số phận/ Và tin/ Không có số phận” với hàm
ý: Sự tiến bộ đồng nghĩa với việc không tin có số phận, không tin sự an bài có
sẵn.
Đấy những định đề được rút ra qua
ba bài thơ của K. Lubomirski.
Tiếp theo là Y. Bonnefoy với “Bất
toàn là đỉnh cao”: Có điều là phải hủy diệt, và hủy diệt, và hủy diệt/ Có điều
là cần sự cứu rỗi chỉ có được bằng cái giá đó/ Phá tan bộ mặt trần trụi trồi
lên trong đá hoa/ Đập vỡ mọi hình dạng, mọi cái đẹp/ Yêu cái toàn bích bởi đó
là ngưỡng cửa/ Nhưng chối từ ngay nó khi tận mặt, hãy quên nó, cái đã chết/ Bất
toàn là đỉnh cao.
Chất định đề nằm trong câu; “Bất
toàn là đỉnh cao" với hàm ý: Mọi cái phải là hành trình đến đích và đích đến
là vô cùng, nhiều khi “toàn” không phải là tuyệt đỉnh.
Tiếp theo là Mai Quỳnh Nam với
“Không đề I”, “Vũng nước trên đường”.
“Không đề I”: Vô nghĩa/ như mùa
không tình ái/ chiến trận không chiến bại.
“Vũng nước trên đường”: Nước thành không rũ sạch
bụi trần/ vẫn là nước thánh/ hạnh phúc mong manh/ vẫn là hạnh phúc, bên cạnh những
bất hạnh.
Chất định đề ở bài thứ nhất nằm
trong cả 3 câu với hàm ý: Ở đời, chẳng còn ý nghĩa gì nữa nêu không có hiện tượng
và kết cục.
Chất định đề ở bài thứ hai nằm
trong cả 4 câu với hàm ý: Những gì đã được định danh, định tính từ lâu rồi thì
không dễ gì thay đổi được và không thể thay thế cho nhau được.
Sau Mai Quỳnh Nam là Thanh Quế. Trong “Sự chuyển
động” (thơ giai đoạn 2000 – 2020), Thanh Quế có 3 tứ thơ có giá trị như thơ định
đề. Đó là các bài “Thế giới”: “Là/ Cái cây dễ gãy/ Mà muốn sống/ Con người phải
leo trèo/ Hái quả”; “Con người đương đại”: “Chúng ta/ Ngày càng xa lánh mọi người/
Xa lánh xã hội/ Để ép mình lại/ Nằm gọn trong ví tiền”; “Ai kia”: “Lúc quì gối
xoa tay lúc đẩy xô chen lấn/ Đường công danh như đường lên trời/ Ai kia, có phải
con người?”.
Tạm kết: Vai trò và ý nghĩa, cũng như hiệu quả của thơ định đề
là rất lớn. Đặc biệt là tính hiện đại của thơ định đề.
Thơ định đề thường được dẫn dắt rất
trực tiếp, đi thẳng vào lòng người.
Thơ định đề không thích hợp với
những ai ưa làm duyên làm dáng, coi nặng hình thức mà trống rỗng về mặt nội
dung. Hay nói một cách khác: Thơ định đề thường bất chấp hình thức.
Mặt khác, thơ định đề hàm chứa và
hiện đại ở chỗ: Sau mỗi câu, mỗi dòng…người đọc có thể tiếp nhận được một lượng
thông tin rất lớn và có thể viết lại thành một bài luận với một khối lượng từ
ngữ đáng kể. Và đằng sau nó, rất có thể là một khởi đầu từ một sự tưởng chừng
đã kết thúc.
Cuối cùng, thơ định đề cuốn hút vì nó thách thức tư duy của người đọc, vì nó giống lời phán quyết của cảm xúc, vừa duy lý, vừa duy cảm và vì trong sự ngắn gọn, cô đọng ấy, nó gợi mở cả một thế giới suy tưởng.