Khổ cho Ông Cụ, biết Paris, biết Berlin, biết Moscou... mà lại chưa biết Hà Nội. Ông Cụ về Hà Nội với bộ quần áo chàm và cái túi vải cũng nhuộm chàm mà người Tày thường đeo trong khi lên nương rẫy hoặc đi chợ, con người mà vài chục năm sau cả thế giới biết tiếng.
Trích hồi
ký THÁNG TÁM CỜ BAY của VŨ ĐÌNH HUỲNH
Nhận định
của Trung Ương Đảng về "Nhật Pháp bắn nhau và nhiệm vụ của chúng ta"
đăng trên tờ "Cờ Giải Phóng" ra rất kịp thời. Chúng tôi chuyền tay
nhau tờ báo bí mật của Đảng, căng mắt ra đọc ngấu nghiến từng chữ, thấy tim
mình nhảy lên trong lồng ngực. Cái thời cơ mà chúng tôi chờ đợi, tưởng chừng phải
hết cả đời mình chưa chắc có, đã lồ lộ trước mắt.
Ngày 9
tháng 3 năm 1945, Hà nội thu mình trước biến cố lớn. Sau vài phát súng đì đẹt,
lính Nhật chiếm các công sở. Chính quyền Pháp rã tươm như giấy bản gặp nước.
Lính Pháp, mật thám Pháp, quan lại Pháp vừa nhác thấy bóng lính Nhật đã bỏ chạy
hoặc đầu hàng. Quân đội của thống chế Têrôchi thực tế chỉ mất vài chục viên đạn
để thu toàn bộ Đông Dương về tay mình. Người Nhật đã đến lúc cần được rảnh tay
khỏi cái chính quyền thuộc địa được giữ lại cho tiện mà hóa ra bất tiện, để đối
phó với phong trào cách mạng đang lớn lên từng ngày và đẩy mạnh các hoạt động
vơ vét tài nguyên của Đông Dương cho những nhu cầu của cuộc chiến tranh tuyệt vọng
đã thấy trước ngày tàn.
Nhân lúc hỗn
quân hỗn quan, tù chính trị ở Hỏa Lò vượt ra ào ào, kẻ vọt tường, người chui
theo đường cống ngầm. Ngôi nhà nhỏ số 65 phố Sergeant Larrivé của gia đình tôi
(phố Nhà Rượu, bây giờ là Nguyễn Công Trứ) trở nên náo nhiệt một cách âm thầm.
Náo nhiệt, bởi vì cùng lúc các bạn chiến đấu về đó rất nhiều – Trần Đình Long,
Bùi Lâm, Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa... và những anh em khác mà tôi cũng
chỉ gặp lần đầu. Thôi thì đủ chuyện để bàn, đủ việc để làm. Không có nghỉ ngơi
gì hết. Cách mạng đang cần mỗi người một tay. Âm thầm, bởi vì vợ tôi luôn miệng
nhắc nhở những anh chàng bốc đồng, cười nói quá lớn, thể là họ đành phải hạ giọng
thì thầm, kể cả khi tranh luận.
Trước mắt,
phải lo cho anh em có quần áo mặc, mỗi người tự chọn cho mình cách cải trang
thích hợp. Bùi Lâm, đầu húi cua, khoác bộ cánh công nhân Nhà máy rượu, sẽ ra đi
vào lúc tan tầm, lẫn lộn với dân thợ. Trần Đình Long sắm vai nhà giáo rất hợp.
Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Minh Chính trẻ măng biến thành học sinh con nhà giàu, đầu
bóng nhẫy.
Việc tổ chức
những bữa cơm đông người cũng phải rất thận trọng, từ việc đi chợ cho tới việc
băm chặt, nấu nướng. Công việc này chúng tôi hoàn toàn tin cậy giao cho chị Tường,
người giúp việc. Là một người đàn bà ngoan đạo, chịu đọc kinh hàng ngày, đi lễ
chủ nhật, còn những giờ khác thì phục vụ những người cộng sản vô thần, trông chừng
mật thám cho họ, làm cả nhiệm vụ liên lạc cho họ. Về sau này chị Tường được tưởng
thưởng như một người có công với cách mạng.
Việc Việt
Minh có chiến khu, những vụ phá kho thóc của chính quyền cai trị chia cho dân
nghèo, các cuộc diễn thuyết ở chợ, trong rạp hát, các vụ giết bọn chó săn của
Nhật làm nức lòng dân. Nhưng những tên mật thám, trung thành trong sự u mê của
chúng, vẫn không rời mắt khỏi chúng tôi, những người bị coi là có tì vết trong
cuộc đấu tranh chống chính quyền thuộc địa. Chúng lân la ngồi lì ở các hàng
quán của phố Nhà Rượu, dò la và canh chừng ngôi nhà chúng tôi. Những người tù
vượt ngục rời khỏi nơi trú ẩn đầu tiên, từng người một, không bị phát giác. Có
lần tôi phải đi Gia Lâm mà một tên mật thám thì cữ lẵng nhẵng bám theo, cũng bằng
xe đạp. Qua cầu Long Biên (cầu Doumer, theo tên gọi lúc đó), tôi rẽ xuống bãi,
dựa xe vào gốc cây, vờ tìm chỗ đi vệ sinh. Ngồi thụp xuống bờ ruộng, tôi châm
thuốc lá rồi buộc điếu thuốc tỏa khói vào một nhành lúa và lủi qua nơi khác.
Khi tên mật thám nhận ra là đã hớ, hắn vội vàng đi tìm tôi, còn tôi thì đã đi
tiếp con đường của mình.
Những cách
thức, mánh khoé cắt đuôi bọn mật thám được chúng tôi kịp thời phổ biến cho
nhau, gây cho chúng lúng túng và bực tức, nhưng có lẽ bọn Nhật cũng chẳng tin
tưởng mấy ở lũ đầy tớ do Pháp để lại, thành thử bọn mật thám cũng chẳng làm khó
được chúng tôi bao nhiêu.
Anh Sao Đỏ
(Nguyễn Lương Bằng) đã quên hẳn cái giá một vạn đồng treo cho cái đầu của anh
khi anh vượt ngục Sơn La ung dung đi lại trong thành phố trong tấm áo bành tô rộng
màu đen, hệt như một ông thầu khoán có hạng. Những ông chủ mới của Hà Nội, bề
ngoài hung tợn, nhưng khờ khạo hơn bọn Pháp nhiều. Họ cứ tưởng với chiêu bài “Đại
Đông Á cùng chung thịnh vượng” và một chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim là đủ an
dân.
Số cách mạng
thoát ra khỏi các nhà tù đế quốc trong cảnh nhộn nhạo tháng Ba là lực lượng bổ
xung kịp thời và quý báu vô cùng cho phong trào cách mạng đang lên. Cũng trong
dịp này, anh Trần Huy Liệu vượt ngục Nghĩa Lộ trở về, cháu Trần Huy Diễm được gặp
bố, vui mừng khôn kể. Trong thời kỳ anh Liệu bị giam ở Sơn La, rồi chuyển sang
“căng” (camp de concentratien – trại tập trung) Bá Vân, Nghĩa Lộ, vợ tôi đón
cháu Diễm về ở với chúng tôi để cháu có điều kiện tiếp tục học hành. Khi anh Liệu
về, cháu Diễm đã trở thành chiến sĩ cách mạng, giữ việc liên lạc giữa chúng tôi
với anh Lê Quang Đạo, anh Đặng Xuân Khu, anh Văn Tiến Dũng, hai bố con trở
thành đồng chí.
Tuy nhiên,
bọn “giặc lùn”, như hồi ấy chúng tôi gọi người Nhật, đã cảm thấy mối nguy từ
phía cách mạng Việt Nam, nhất là sau một số lần đụng độ với những người du kích
của Việt Minh nên chúng bắt đầu ra tay chấn chỉnh tổ chức trong bộ máy tay sai,
tiến hành khủng bố trắng để ngăn cản quần chúng ủng hộ cách mạng. Có một số anh
em được chúng thả nhầm, nay bị bắt trở lại. Nhưng người Nhật, trong thế suy yếu
trước những đòn tấn công dồn dập của các lực lượng Đồng Minh trên nhiều mặt trận,
đã không còn đủ sức chặn lại cơn lũ cách mạng Việt Nam. Hàng ngũ tay sai của Nhật
cũng rệu rã. Nhiều người thức thời đã ngả về phía cách mạng. Đến nỗi, người mà
chúng rất tin tưởng trao cho chức Khâm sai đại thần đã ngả về phía cách mạng
lúc nào mà chúng cũng chẳng biết. Phát hiện con trai của Phan Kế Toại là Phan Kế
An hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh, người Nhật nương tay không bắt
mà chỉ gửi công văn khuyến cáo quan Khâm sai đại thần về phong trào này, rằng
“rất tiếc là trong số đó có cả quý công tử”, ông đọc xong công văn chỉ cười rồi
đưa cho Phan Kế An đọc. Chúng lại càng không ngờ rằng từ khi còn ngồi ghế Tổng
đốc Thái Bình năm 1943, viên Khâm sai đại thần đã mua ủng hộ Việt Minh năm trăm
đồng tín phiếu.
Nạn đói
năm 1945, tức là nạn đói Tháng Ba năm Ất Dậu, hậu quả của mất mùa cùng với việc
diện tích trồng lúa bị thu hẹp do chính quyền chiếm đóng của Nhật bắt dân nhổ
lúa trồng đay, làm chúng tôi choáng váng bởi quy mô khủng khiếp của nó.
Đầu tiên
là ăn mày nhan nhản khắp các phố. Tin đồn về nạn đói lan tràn, từ miệng người
này qua miệng người khác. Giá gạo tăng vùn vụt, kể cả gạo “bông” (bon – phiếu).
Trong gia đình tôi, vợ tôi định mức cho các con, mỗi đứa mấy bát, dành gạo cho
các đồng chí bất chợt tìm đến. Tâm trạng lo lắng còn tăng lên hơn nữa khi từng
đoàn, từng đoàn dân đói rời bỏ làng mạc, tràn vào các thành phố lớn. Những con
người đen đủi, khô quắt, như những bộ xương biết đi, lầm lũi đi trên mọi ngả đường
thành phố, nằm vật vã trên các hè phố ở bất cứ chỗ nào trên con đường vô định
tìm sự sống. Có nhiều người xông vào ăn tranh cám của ngựa nhà binh, bị lính Nhật
chém chết. Sáng sáng, những người phu vệ sinh đi nhặt các xác chết quẳng lên xe
bò chở ra ngoại ô rồi vùi trong những huyệt chung, Người ta kể rằng có nhiều
người còn ngắc ngoải cũng bị phu vệ sinh quẳng bừa lên xe, miệng còn kêu “Con cắn
cỏ lạy các ông các bà, con chưa chết đâu ạ”. Những người phu vệ sinh thở dài,
ngừng tay cho họ leo qua thành xe bò xuống. Nhưng cũng có những trường hợp họ cứ
đẩy xe đi” “Đằng nào thì cũng chết, để chúng tôi đưa đi luôn thể”.
Sao Đỏ
giàu tình cảm. Chỉ nhìn những cảnh ấy, anh cũng đã gày rộc đi. Một hôm ngủ lại
nhà tôi, đang đêm anh thức giấc, lay tôi dạy, ngẹn ngào “Cách mạng mà không
thành công sớm thì dân mình tuyệt diệt mất”.
Mà thế thật,
nếu chiến tranh không sớm kết thúc, cách mạng không thành công thì không thể biết
được cái gì sẽ tới, nạn đói có chấm dứt không, hay sau đó sẽ là một nạn đói lớn
hơn nữa?
Tôi đã kể
trong đoạn trước, Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt) yêu cầu tôi phải kiếm bằng được
một máy thu thanh để theo dõi tin tức chiến tranh, đặc biệt là mặt trận Xô-Đức,
là cái rất cần cho Đảng lúc ấy, không kém gì những cái cần khác. Tôi tìm mua được
một được một cái Phillipps của Hà Lan. Đêm đêm, chúng tôi thức rất khuya, có
khi thay nhau thâu đêm, bên cái mắt thần xanh lơ của nó, tai lắng nghe những tiếng
thì thầm từ bên kia trái đất vọng về. Không thể vặn tiếng cho to được, cái đó
cũng nguy hiểm như chứa vũ khí trong nhà nếu bị Nhật phát hiện. Ở Hà Nội, trong
thời gian này máy thu thanh phải đăng ký, mà những máy đăng ký sẽ bị cắt hết
các băng sóng ngắn, chỉ còn sóng dài nghe đài địa phương mà thôi. Những đêm
chúng tôi không trở về nhà thì cháu Diễm phải trực nghe để ghi lại cho chúng
tôi.
Không thể
nào tả xiết nỗi vui mừng của chúng tôi khi được tin Hồng quân Liên Xô ngày 2
tháng 5 đã tiến vào Bá Linh, sào huyệt của bọn phát xít. Cháu Diễm lập tức lên
xe đạp đi tìm bố cháu để báo tin này. Anh Trần Huy Liệu lúc ấy lo việc ra báo
“Cứu Quốc” của Mặt trận. Còn ngày 8 tháng 5, khi nước Đức phát xít đầu hàng
không điều kiện, đối với chúng tôi là ngày hội. Các anh Sao Đỏ, Bùi Lâm, Trần
Huy Liệu, Hạ Bá Cang tập trung ở ngôi nhà số 65 Nhà Rượu và chúng tôi ăn một bữa
thịnh soạn, có rượu. Người bạn đồng minh châu Âu của quân phiệt Nhật đã bị quật
ngã. Giờ đây chỉ còn “anh lùn” đơn thương độc mã trên chiến trường Châu Á.
- Chúng nó
đã đến ngày tận số!
Hạ Bá Cang
vênh mặt nhìn chúng tôi, tuyên bố. Sao Đỏ vốn ít lời, rót thêm rượu cho mình.
Bình thường anh không chạm tới rượu. Trần Huy Liệu ngồi yên, mắt chớp chớp, như
đang lắng nghe nghững vần thơ chợt tới. Liệu hay làm thơ. Bất cứ sư kiện nào
cũng làm anh nghĩ tới thơ và làm thơ. Những bài thơ ấy rồi vương vãi khắp nơi,
chẳng được giữ lại. Nếu Trần Huy Liệu giữ được hết, không bị mất đi, những bài
thơ anh sáng tác trên những ngả đường anh đã đi qua, thì chắc chắn phải có một
tập thơ dày bằng cuốn từ điển Larousse. Quả nhiên, chỉ một lát sau, bài thơ ra
đời thật. Tiếc là tôi không nhớ, nhưng đó là một bài thơ hay, đầy hào khí Việt
Nam. So với bài “Nhật hoàng khóc Hit-le”, nhại theo bài Khóc Nghe Dương của cụ
Nguyễn Khuyến thì hơn hẳn, mặc dầu bài kia cũng hay, làm chúng tôi cười hả dạ.
Giữa đất
nước nhỏ bé của chúng ta với cả hoàn cầu có mối liên hệ khăng khít. Số phận của
dân tộc Việt Nam chưa bao giờ gắn liền với cuộc vật lộn sống chết của cả loài
người với chủ nghĩa phát xít tàn bạo đến thế!
Chúng tôi
lao vào công tác, không còn biết đến nghỉ ngơi. Người nào người nấy gày rộc đi.
Những chuyện đi đêm về hôm, lẩn trốn mật thám, những bữa ăn thất thường, có khi
nhịn suông, làm cho chúng tôi gày, nhưng tinh thần thì hăng ghê lắm, không gì
có thể cầm chân chúng tôi được.
Một hôm
Sao Đỏ đi tìm tôi. Gặp nhau ở một cơ sở, anh kéo tôi ra ngoài, nói:
- Có tin
vui đây này, nhưng phải tuyệt mất đấy. Ta sắp mở một hội nghị rất lớn với đầy đủ
đại diện các tầng lớp. Chuẩn bị tổng khởi nghĩa rồi.
Tôi sướng
muốn reo ầm lên trước tin đó. Tổng khởi nghĩa, đó là mơ ước của tất cả chúng
tôi. Với tất cả bầu máu nóng của tuổi trẻ, chúng tôi chờ đợi cái ngày mà Trung
ương quyết định Tổng khởi nghĩa để lao vào cuộc chiến một mất một còn với kẻ
thù.
- Ta phải
chuẩn bị cho hội nghị này. - Sao Đỏ nói và tôi hiểu anh đang trao nhiệm vụ cho
tôi. Làm thế nào giữ được bí mật tuyệt đối cho hội nghị trong khi phải có đủ thứ
cho ra trò. Có quạt, có loa, đó là cái thứ nhất. Thứ hai, hội nghị sẽ có cả người
ngoại quốc đấy, phải có ruợu Tây, bánh kẹo tử tế để thiết đãi người ta...
Chúng tôi
ngồi lại với nhau bàn kế hoạch hậu cần cho Đại hội Quốc dân mà sau này được ghi
vào sử sách cái tên Đại hội Tân Trào.
Tôi tới
nhà bà Sáu, con dâu cụ Lương Văn Can, cháu ruột cụ Án Kiến, ở nhà số 32 Hàng
Ngang, có cửa hiệu buôn. Tôi nhờ bà nhuộm cho tôi mười mét vải đỏ và bốn mét rưỡi
vải vàng. Bà tươi cười hỏi tôi cần vải nhuộm hai màu đó làm gì thì tôi đùa bỡn
trả lời bà: “Để lên đồng mà, cần gấp đấy, bà lo sớm cho tôi!”. Người con dâu của
nhà cách mạng nổi tiếng thừa biết tôi cần hai màu đó làm gì, bà chỉ cười tủm tỉm.
Hồi đó người dân nào cũng đã được nhìn thấy hoặc nghe kể về lá cờ đỏ sao vàng của
Mặt trận Việt Minh. Vải có rồi, tôi đi mua sâm-banh, vang Dubonnet và các thứ
rượu khác, lòng tự hỏi: khách ngoại quốc là ai thế nhỉ? Mọi thứ lập tức được
chuyển ngay cho Sao Đỏ, chúng sẽ được lên chiến khu theo đường riêng. Sao Đỏ
nói cho tôi biết địa điểm gặp rồi chúng tôi chia tay.
Người tôi
như mọc cánh. Trong đầu tôi lúc nào cũng vang vang ba tiếng Tổng khởi nghĩa. Nó
như điệp khúc láy đi láy lại không ngừng trong cái đầu bừng bừng say của tôi.
Tôi lấy vé ô tô đi Bắc Ninh. Lên tới Hiệp Hòa, bước qua sông Đuống là đã bước
vào thế giới của chúng ta rồi, thế giới của tự do, độc lập. Trong cái bát ngát
của đồng quê và dòng sông tôi chợt nghe thấy tiếng trẻ em hát Tiến Quân Ca.
Nhìn xa hơn một chút tôi bất gặp những lá cờ đỏ sao vàng vẫy gọi. Nước mắt tôi
chảy ra giàn giụa. Niềm xúc động lớn lao biến thành những giọt lệ hạnh phúc.
Người đi cùng đường, một thanh niên trẻ măng, ngoái lại nhìn, không hiểu sao
tôi đang đi bình thường bỗng chậm hẳn lại. Đành phải nói thác rằng tôi bị bụi
vào mắt, nói thật vẫn cứ xấu hổ thế nào ấy.
Tại Tân
Trào, tôi gặp lại Sao Đỏ. Chúng tôi đều lên sớm hơn các đại biểu khác để tham
gia vào việc chuẩn bị. Tôi và Sao Đỏ ở trong một nhà dân, Ông Cụ ở lán.
Ông Cụ là
biệt hiệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đối với những ai được biết điều còn được
giữ bí mật. Với những ai không được biết, Ông Cụ là một nhân vật bí hiểm có tên
là Hồ Chí Minh. Trước khi lên Tân Trào, tôi chưa được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc
lần nào. Nhưng từ lâu rồi, và không riêng đối với tôi, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã trở thành biểu tượng của ngọn cờ cách mạng Việt Nam.
Vừa mới
chân ướt chân ráo tới chỗ Sao Đỏ, anh đã bảo tôi:
- Này, Ông
Cụ hỏi tôi về tình hình nhân sĩ trí thức của Hà Nội và Bắc hà đấy, tôi nói cái
này tôi không rành, sẽ có đồng chí khác báo cáo. Bây giờ anh lên rừng, anh gặp
Ông Cụ đi!
Chúng tôi
đi vào trong rừng, tới một cái lán. Khi chúng tôi bước vào Ông Cụ đang ngồi
chăm chú đọc một cuốn sổ tay nhỏ. Gầy còm nhưng rắn rỏi, đôi mắt sáng và linh lợi,
với chòm râu thưa, Ông Cụ tôi tiếp chuyện tôi một cách cởi mở, giản dị. Với giọng
trầm và ấm, từ trong ngực phát ra, Ông Cụ hỏi qua về tôi rồi đề nghị tôi nói
cho ông nghe tình hình trí thức trong nước. Tôi báo cáo với Ông Cụ những gì tôi
biết, từ phong trào Cần Vương trở đi, ai còn ai mất trong đám Đông Kinh Nghĩa
Thục, Phục Việt, đám tri thức mới trong các nhóm Thanh Nghị, Tự Lực Văn Đoàn,
Ngày Nay... và thái độ của từng người đối với Việt Minh và cách mạng thế nào...
Ông Cụ
nghe chăm chú, thỉnh thoảng mỉm cười, ngắt lời tôi để hỏi về một người nào đó.
- Này, cụ
Huỳnh Thúc Kháng sao nghe nói có hợp tác với Tây?
- Chuyện
đó không có đâu. - Tôi đáp - Sau khi ở Côn Đảo về, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo
Tiếng Dân. Tây ngại, muốn mua chuộc, có mời cụ ra làm viện trưởng Viện dân biểu
thật. Hồi ấy tôi có đi Huế để yết kiến cụ. Tôi thấy cụ vẫn giữ đúng tư cách nhà
nho yêu nước chứ không phải phường cơ hội. Tây định lợi dụng uy tín của cụ,
nhưng cụ đâu có để cho chúng toại nguyện.
Ông Cụ gật
gù, vẻ thích thú.
- Tại sao
lại gọi ông Tố là ông Phán Men? Nghiện rượu à?
- Ông Nguyễn
Văn Tố, nhà ở Hàng Bút, đi làm tận gần Bờ Sông, nhưng không bao giờ đi xe kéo,
mà đi bộ, và khi nào cũng cầm ô đi sát tường, đi men tường, mới thành cái biệt
hiệu ông Phán Men.
Ông Cụ cười
thành tiếng. Giọng cười cũng ấm áp, thư thái và truyền cảm.
- Thế còn
linh mục Phạm Bá Trực? Ông ta cũng yêu nước?
Tôi phải kể
dài dòng về vị linh mục này. Khoảng những năm đầu 30, linh mục Trực tốt nghiệp
mấy bằng tiến sĩ ở Rôma trở về nước, ai cũng nghĩ ông sẽ được phong giám mục, vậy
mà giáo chức người Pháp lại đưa ông về thị xã Hà Đông trông một xứ đạo nhỏ, chỉ
vì ông bướng bỉnh chống lại những lề thói phân biệt đối xử giữa các linh mục
Tây và ta. Thầy cố đạo Tây lộng hành, ông mắng. Thấy linh mục ta không được ăn
chung với linh mục Tây, ông chống. Ông chống cả việc linh mục Tây vào gặp giám
mục thì bắt tay mà linh mục ta thì phải tụt giày, vái lạy. Ông Phạm Bá Trực có
câu nói nổi tiếng: 'Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da'.
Ông Cụ tỏ
vẻ hài lòng với những thông tin của tôi. Tuy sơ kiến, nhưng tôi cảm thấy Ông Cụ
thật gần gụi. Tôi gọi Ông Cụ bằng cụ (mặc dầu cụ bấy giờ mới độ năm mươi lăm tuổi,
như cụ cho chúng tôi biết) và xưng tôi. Có lẽ do quan hệ xưng hô đã hình thành
ngay từ những buổi gặp gỡ đầu tiên mà về sau này suốt những năm làm việc bên cạnh
Ông cụ, cách xưng đó vẫn tồn tại, tuy sau này tôi cũng theo mọi người gọi cụ là
Bác, xưng tôi.
Hội nghị
Tân Trào đang họp thì có tin Hà Nội đã nổi dậy cướp chính quyền. Trần Huy Liệu
được phân công viết cấp tốc lời kêu gọi Tổng Khởi Nghĩa. Sau đó là lễ xuất phát
của Giải phóng quân. Bức ảnh Giải phóng quân xuất phát có Võ Nguyên Giáp đội mũ
phớt là do Hoàng Văn Đức chụp. Lúc đó chỉ có Hoàng Văn Đức là có máy ảnh mang
theo.
Cũng trong
thời gian này người Mỹ đã thả một số quân nhảy dù xuống Tân Trào, người cầm đầu
là một thiếu tá tên Thomas. Những người lính này rất phấn khởi được gặp lực lượng
cách mạng Việt Nam. Thomas và tôi đã có một số cuộc trò chuyện vui vẻ và chân
thành. Tôi có cảm giác là trong giai đoạn đó, những quân nhân này chẳng cần biết
chúng tôi có phải là cộng sản hay không, điều quan trọng là chúng tôi cùng đánh
Nhật. Một việc gây ấn tượng hết sức sâu sắc trong lòng viên thiếu tá trẻ và
quân lính của anh ta là khi nhảy dù xuống họ làm rơi mốt số đồng đô-la bằng
vàng, dân ở đấy nhặt và trả lại họ đầy đủ, không thiếu đồng nào. Cầm lại những
đồng tiền đã mất họ cứ ngơ ngẩn như gặp chuyện thần thoại, nhất là khi biết những
người tiếp họ không phải những kẻ ăn lông ở lỗ mà là những trí thức biết nói tiếng
nước ngoài, lịch sự, và chắc chắn rất biết giá trị của thứ kim loại đó.
Đại hội bế
mạc. Chúng tôi chia tay nhau. Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp và
tôi về Hà Nội bằng đường Thái Nguyên. Hoàng Quốc Việt và Nguyễn Lương Bằng về
đường Tuyên Quang. Phạm Văn Đồng được phân công lại ở cùng có khu căn cứ địa.
Chúng tôi lúc ấy cũng chưa tin ở thắng lợi trọn vẹn, vì thế vẫn phải có một cái
gì đó đảm bảo cho trường hợp xấu nhất. Đồng rủ tôi ở lại căn cứ địa, nhưng tôi
từ chối. “Tôi là người quen thuộc Hà Nội, anh em còn cần tới tôi nhiều”. Trong
thâm tâm tôi muốn mau chóng được trở lại thành phố thân yêu, nơi tôi hình dung
đang chuẩn bị những cuộc chiến đấu ác liệt giành lại chính quyền của các lực lượng
vũ trang cách mạng.
Chúng tôi
đi bộ qua đèo Re ra Đại Từ, ở đó có một chiếc xe Jeep tăng đã đợi sẵn. Chúng
tôi lúc lắc đi đến Phấn Mễ, người mệt nhừ. Tôi bảo anh em rẽ vào trại của
Nghiêm Xuân Yêm, bạn tôi, nghỉ lại. Đến đây, chúng tôi mới biết Mỹ đã ném bom
xuống Hiroshima và Nagasaki vào hai ngày 6 và 9 tháng 8, đồng thời Liên Xô
tuyên chiến với Nhật ngày 9 tháng 8. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà lắc, cười ha
hả. Chuyện này Quang Trung chưa biết. Giải phóng quân, dưới sự chỉ huy của anh,
đang bao vây trại lính ở Thái Nguyên, hai bên đang bắn nhau. Võ Nguyên Giáp hạ
lệnh cho Quang Trung ngừng bắn và liên hệ với bọn Nhật trong trại, báo cho biết
tình hình và đề nghị chúng hạ vũ khí. Lúc ấy Nhật chưa ký hiệp ước đầu hàng
không điều kiện, nhưng chúng tôi cứ nói đại là đầu hàng rồi. Bọn Nhật hoang
mang không tin cả đài phát thanh của chúng nữa, chúng sẵn sàng tin chúng tôi
hơn. Xe chúng tôi về tới Bắc Giang thì gặp Huyên (Nguyễn Thanh Bình). Huyên
thay xe cho chúng tôi, bởi vì về Hà Nội trên cái xe ọp ẹp kia nom thảm quá, hơn
nữa nó lại ì ạch như sên. Đi trên chiếc xe Ford đen chững chạc hơn, nhanh hơn
được một quãng thì gặp đường vỡ vì nước lớn, chúng tôi lại phải quay lại vòng về
Phả Lại để chạy hướng Cầu Đuống. Lòng chúng tôi như lửa đốt. Suốt dọc đường Đặng
Xuân Khu cứ chồm mình về phía trước, như thể bằng cách đó anh có thể làm cho xe
đi nhanh hơn. Trầm tĩnh hơn, Võ Nguyên Giáp lim dim mắt ngủ thiêm thiếp.
Tới Cầu Đuống,
tôi đề nghị cả ba xuống xe vào nhà một ông giáo có chân trong Hội truyền bá quốc
ngữ và là người có cảm tình với cách mạng. Tôi mượn nhà giáo một cái xe đạp, để
Đặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp lại, đạp một lèo về Hà Nội. Tôi về trước là để
nghe ngóng tình hình cụ thể, sau đó mới lên đón hai người, biết đâu... Ai dè về
tới Gia Lâm đã thấy phố xá chìm ngập trong rừng cờ đỏ sao vàng phấp phới. Qua cầu
Đu-me, tôi xộc ngay vào phố Chợ Gạo gặp Nghiêm Tử Trình. Vừa kịp hỏi 'Tình hình
thế nào, đưa Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp về được chứ?” thì Trình trợn mắt lên
“Cướp chính quyền xong rồi. Ra Bắc Bộ phủ thì gặp tất cả chúng nó”. Tôi nhảy
luôn lên xe, phóng tiếp. Bắc bộ phủ đây rồi! Trên nóc nhà đã tung bay lá cờ của
ta. Trước cửa Bắc bộ phủ người lính của ta đứng gác. Tôi đưa bàn tay ngang trán
chào anh Giải phóng quân, đi vào. Trong Bắc bộ phủ, anh em đang xúm xít làm việc
bên một cái bàn rộng. Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Trân, Thân mỡ ôm chầm lấy tôi.
Tôi báo tin Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp đang chờ ở Cầu Đuống. Anh em cho lấy
ngay một xe Com-măng-ca của Nhật đi đón. Tôi quẳng cái xe đạp cũ mục lên, ngồi
vào bên đồng chí lái xe, cho phóng thẳng trở lại Cầu Đuống.
Đặt chân tới
Bắc bộ phủ, Đặng Xuân Khu phân công ngay Khu trông nom công việc chung trong
khi Ông Cụ chưa về Hà Nội, tôi và Giáp đi gặp các nhân sĩ, trí thức chuẩn bị
cho Ông Cụ về lập chính phủ. Chúng tôi tới nhà Đặng Thái Mai đầu tiên. Mai cho
biết anh cũng vừa mới ra tới Hà Nội, do Trần Minh Việt đi xe hơi vào Thanh Hoá
vào đón. Cùng lúc đó Lê Trọng Nghĩa đã tiếp xúc với Trần Duy Hưng, mời Trần Duy
Hưng ra làm việc cho cách mạng. Vị thị trưởng nhiều năm sau này của thành phố
Hà Nội chỉ hỏi độc một câu: 'Cấp trên của các cậu là ai?'. Khi biết cấp trên của
chúng tôi là ai, Trần Duy Hưng đồng ý ngay. Anh Đặng Thai Mai đến báo tin Hoàng
Minh Giám, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Xiển, Hồ Hữu Tường có gửi một bức điện cho ông
vua cuối cùng của triều Nguyễn đòi phải thoái vị. Đặng Thai Mai, tôi và Võ
Nguyên Giáp đến thăm Nguyễn Xiển. Thời còn dạy học ở trường tư thục Thăng Long,
hai người đã quen nhau, nhưng anh Giáp không biết anh Xiển ở đâu. Sau Xiển,
chúng tôi tới Hồ Hữu Tường. Rồi Tạ Quang Bửu. Rồi Nguyễn Mạnh Tường. Rồi Hoàng
Xuân Hãn... Đâu cũng mừng rỡ với cuộc cướp chính quyền không đổ máu. Ai cũng
mong muốn góp phần của mình vào sự nghiệp chung. Đặc biệt nhà học giả Nguyễn
Văn Tố, khi anh em chúng tôi mời cụ tham gia việc nước, cụ nhận lời ngay, không
một chút đắn đo, coi như phận sự phải làm, sẵn sàng làm việc gì cũng được, ai
là cấp trên mình cũng được. Trí thức của ta thật tuyệt vời, thật đáng tự hào!
Những công
việc ùn ùn, bề bộn, không tên của cách mạng đi qua cuộc đời chúng tôi trong những
ngày này với tốc độ chóng mặt. Chúng tôi gần như không ngủ. Mặt người nào người
ấy hốc hác, gày xọp, nhưng mắt thì long lanh và miệng thì luôn cười tươi. Căn bệnh
phố biến nhất trong những ngày sôi động đó là khan tiếng. Chúng tôi phải nói
quá nhiều, nhất là trước những đám đông, và phải nói lớn đến nỗi họp với nhau
chúng tôi cũng làm ồn lên như cãi vã, trong thực tế đó là những ngày chúng tôi
thân yêu nhau nhất, thương nhau nhất.
Có lẽ do ảnh
hưởng của bản báo cáo miệng của tôi với Ông Cụ về tình hình trí thức Bắc Hà, và
kết quả những sự tiếp xúc của tôi và Võ Nguyên Giáp với trí thức mới đây, nên
trong cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng tại nhà Trịnh Văn Bô (khoảng 21 hoặc
22 tháng Tám), mà anh Sao Đỏ đã đề nghị cho tôi tách khỏi mọi công tác để giúp
việc cho Ông Cụ. Mặt khác, trong thời kỳ hoạt động bí mật, tôi đi lại nhiều, có
nhiều hiểu biết về các địa phương trong nước, có quan hệ với nhiều giới khác
nhau, mà Bác thì lại mới từ nước ngoài về, cần đến một người như tôi ở bên cạnh
để tham khảo ý kiến. Đề nghị của anh Sao Đỏ được Thường vụ tán thành.
Quả vậy,
việc đầu tiên của Ông Cụ sau khi đặt chân lên đất Hà Nội là nhanh chóng xây dựng
bộ máy chính quyền cách mạng trung ương gồm những người có danh tiếng, đại diện
cho tinh hoa đất nước. Với bản tính khiêm tốn, trọng kẻ sĩ, Ông Cụ không tự coi
mình cao hơn hết, những người cộng sản giỏi hơn hết, không cần tới ai khác.
Cũng tại Tân Trào, khi kết thúc câu chuyện với anh Sao Đỏ và tôi, Ông Cụ nói:
“Chúng mình là cái men thôi, gây nên được rượu là nhờ vào cơm nếp, phải có đông
đảo quần chúng tham gia mới thành cách mạng”. Ông Cụ cũng coi nhân sĩ trí thức
là thứ men tốt, cần phải kéo họ về phía mình.
Trong công
tác cách mạng, tôi có thời kỳ làm báo, những tờ báo chết lên chết xuống trong
trào lưu chống đối chính quyền thuộc địa và được Đảng lãnh đạo như tờ Le
Travail (Lao Động), L'Avenir (Tương Lai), Tin Tức, Tân Xã Hội, có tờ ra được mấy
số đã bị đóng cửa, do đó mà có mối quan hệ với giới trí thức Bắc Hà. Những mối
quan hệ với giới trí thức trở nên khăng khít hơn khi tôi nhận nhiệm vụ của Đảng
vận động cách mạng trong giới này. Cần phải nói ngay rằng vận động cách mạng
trong trí thức không phải khó. Phần lớn trí thức nước ta có tinh thần yêu nước.
Họ dễ dàng chấp nhận những tư tưởng cách mạng, vốn là những tư tưởng sẵn có
trong kiến thức nhân loại. Tất nhiên, trí thức không vì thế mà dễ trở thành những
chiến sĩ cách mạng kiên định, nhưng trong thâm tâm họ bao giờ cũng hướng về những
tư tưởng tiến bộ. Giờ đây khi cách mạng đã thành công, họ lại càng dễ ngả về
phía cách mạng hơn nữa. Nhận định như vậy, tôi cảm thấy yên tâm trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao phó. Nhận định này không phải của riêng tôi, anh Sao Đỏ,
anh Đặng Xuân Khu cũng hoàn toàn đồng ý với tôi.
Trần Đăng
Ninh lên Tân Trào đón Ông Cụ. Bước dừng chân đầu tiến trước cửa ngõ Thủ đô của
Ông Cụ là làng Phú Gia ở bên kia sông Hồng. Trường Chinh lập tức sang gặp gỡ
Ông Cụ để báo cáo công việc. Ngày 24 tháng 8, tôi đón Ông Cụ về 48 Hàng Ngang,
lần này với tư cách người thư ký riêng, mà hồi đó người ta thường gọi là bí
thư.
Ngôi nhà
48 Hàng Ngang là nhà riêng của Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng tăm của
thành phố hồi ấy. Anh chị Bô rất có cảm tình với cách mạng và đã giúp đỡ các
cán bộ của Đảng trong những ngày ta chưa lấy được chính quyền. Hình như người
đã đem ảnh hưởng cách mạng vào gia định Trịnh Văn Bô là người con của nhà tư sản
Phạm Lê Bổng. Vợ tôi có họ với chị Bô, nhưng chưa bao giờ tôi tâm sự với anh chị
Bô về chuyện tại sao, vì lẽ gì anh chị gắn bó với cách mạng đến thế. Chúng tôi
quen nhìn hiện tượng đó là lẽ đương nhiên, vả lại trong những ngày Tháng Tám
đó, trường hợp anh chị Bô cũng chẳng phải là cá biệt. Mỗi người Việt Nam lúc đó
là một nhà ái quốc, ai cũng đóng góp một chút gì cho cách mạng. Không thể so
sánh tấm lòng đối với cách mạng của người chỉ có chiếc nhẫn cưới cũng tháo ra ủng
hộ cách mạng trong Tuần lễ vàng với số 117 lạng vàng anh chị Bô, nhà tư sản nhất
nhì Hà Nội, đã hiến cho cách mạng. Tôi chọn ngôi nhà 48 Hàng Ngang vì lòng tin ở
anh chị Bô. Không có ai có ý kiến gì về sự lựa chọn này, nó cũng là lẽ đương
nhiên, bởi ngôi nhà của anh chị Bô trong những ngày đó đã biến thành nơi các
cán bộ đầu não của cách mạng lui tới họp hành và ăn uống, nghỉ ngơi, có gọi đó
là Đại bản doanh của cách mạng cũng không phải là nói quá.
Xe đón Ông
Cụ từ Phú Gia về Hà Nội qua cầu Doumer là rẽ ngay đường Hàng Khoai rồi tạt qua
hông chợ Đồng Xuân về 48 Hàng Ngang (chứ không phải đi theo đường Hàng Cân như
một số hồi ký đã viết). Đường phố đã lên đèn. Từng bừng tiếng trống ếch của thiếu
nhi, đó đây những dòng người biểu tình thị uy hô vang những khẩu hiệu cách mạng,
ở một góc đường một đám đông đang đứng nghe một cán bộ diễn thuyết về chương
trình của Việt Minh... Cả Hà Nội tắm mình trong không khí ngày hội lớn.
Khi bước
lên xe, Ông Cụ hỏi tôi:
- Bây giờ
anh cho tôi về đâu?
- Thưa Cụ,
anh em đã bố trí một cơ sở chu đáo.
Tôi đáp,
biết Ông Cụ là người cẩn trọng.
Xe đến cầu
Doumer, Ông Cụ ngả hẳn người ra kính cửa xe nhìn những gióng sắt của cây cầu rồi
nhìn sông Hồng. Cái nhìn vừa chăm chú lại vừa bỡ ngỡ. Tôi tự hỏi không biết có
phải đây là lần đầu tiên Ông Cụ nhìn thấy những cảnh này không? Chẳng lẽ Ông Cụ
chưa một lần tới đất Thăng Long? Con sông này, nhà Lý ngồi thuyền ra vùng đất đẹp
khởi đô... Bến Chương Dương, Đông bộ đầu... biết bao sự tích từ những thế kỷ xa
đến nay còn vang vọng. Nhưng tôi không dám hỏi. Khi đi gần hết cầu, Ông Cụ lẩm
bẩm 'Nước to'. Chỉ mãi tới khi xe ngang qua hông Chợ Đồng Xuân Ông Cụ mới nói với
tôi:
- Tôi chưa
biết Hà Nội bao giờ cả.
Tôi
"dạ" và cảm thấy xót xa trong lòng. Khổ cho Ông Cụ, biết Paris, biết
Berlin, biết Moscou... mà lại chưa biết Hà Nội. Ông Cụ về Hà Nội với bộ quần áo
chàm và cái túi vải cũng nhuộm chàm mà người Tày thường đeo trong khi lên nương
rẫy hoặc đi chợ, con người mà vài chục năm sau cả thế giới biết tiếng.
Sáng hôm
sau, việc đầu tiên của Ông Cụ trao cho người trợ lý của mình là báo cáo lại một
lần nữa, nhưng tỉ mỉ hơn, cụ thể hơn về từng vị nhân sĩ, trí thức. Tôi ngạc nhiện
trước sự quan tâm đặc biệt của Ông Cụ đối với các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là
đạo Thiên Chúa. Những gì tôi báo cáo, Ông Cụ ghi vào sổ tay, bằng chữ Hán, rất
ngắn gọn, chỉ vài ba chữ là đủ. Từ những dòng ghi ngắn vắn tắt đó đã ra đời
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hằng ngày,
tôi đón Ông Cụ ra Bắc bộ phủ làm việc. Sau 48 Hàng Ngang, Ông Cụ chuyển đến
ngôi nhà của Chánh án tòa Thượng Thẩm số 8 phố Bonchamp (trước cửa Thủy Tạ, sau
này là câu lạc bộ Thể dục Thể thao quận Hoàn Kiếm), chỉ về Hàng Ngang ăn cơm.
Chị Trịnh Văn Bô ngày ngày đặt hai nồi cơm bên Đông Hưng Viên, một hiệu cao lâu
có tiếng của người Tàu ở phố Hàng Buồm, đến giờ họ khắc bưng sang.
Phải tính
chuyện may quần áo cho Ông Cụ, không thể chậm chễ hơn nữa. Đồ lề của Ông Cụ từ
căn cứ địa mang về vỏn vẹn chỉ có một bộ quần áo chàm xanh và một đôi giày vải.
Tôi lên Hàng Buồm mua một đôi giày da, nhưng Ông Cụ lắc đầu, không chịu:
- Tôi
không quen đi cái này, cho tôi giày vải.
Thấy tôi cầm
chiếc cà vạt, Ông Cụ xua xua tay:
- Này, tôi
không bao giờ thắt cổ đâu đấy!
- Thế thì
khi Cụ đi châu Âu thì sao? - Tôi vặn lại.
- Ở châu
Âu cũng không.
Món thứ
hai thế là cũng không xong. Thấy thái độ băn khoăn của tôi, Ông Cụ an ủi bằng
cách mách nước:
- May cho
tôi thế nào thì may, nhưng xuyềnh xoàng thôi, không len cũng không dạ, cốt cái
tươm tất, mà lại giản tiện, tuyệt nhiên không được đắt đỏ, hào nhoáng.
Lúc bấy giờ
chúng tôi đã vận com-lê, cà-vạt hẳn hoi cả rồi, Ông Cụ hẳn không thích con mắt,
nhưng cũng không chê bai.
Tôi vắt óc
nghĩ xem nên chọn cho Ông Cụ kiểu nào? Làm sao cho vừa giản tiện, vừa tươm tất,
mà phải oai vệ nữa mới tốt. Tôi nghĩ mãi, nghĩ mãi, cuối cùng nhớ ra kiểu quần
áo của Stalin mà tôi đã thấy trong các ảnh chụp. Thôi được, tốt rồi, cứ kiểu đó
mà may, chắc Ông Cụ không phản đối.
Tôi mời
anh Phú Thịnh, chủ tiệm may ở phố Hàng Quạt tới.
- Tôi có
người nhà là cụ Lý ở nhà quê ra. - Tôi nói với chủ hiệu may - Tôi muốn anh may
cho cụ vài bộ quần áo. Nhưng cụ Lý nhà tôi chỉ thích mặc áo vải, không thích
len dạ. Áo quần kiểu này chắc cụ hài lòng, đây (tôi đưa ra bức ảnh Stalin), kiểu
đúng thế này, nghĩa là cài được kín cổ và có bốn túi.
Anh Phú Thịnh
may xong. Ông Cụ rất hài lòng. Tôi thở phào. Ít hôm sau, tôi nói với Ông Cụ:
- Tôi cóp
kiểu của Stalin đấy.
Ông Cụ cười:
- Thế này
được.
Anh Phú Thịnh
hẳn sẽ sung sướng khi biết rằng cái ông cụ Lý mà anh vừa may áo cho tên là Hồ
Chí Minh. Anh không phải chỉ may quần áo cho cụ Hồ, anh còn may cho rất nhiều
người khác do tôi đưa tới như Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Hạ Bá Cang, Lê Đức
Thọ... Bà Trịnh Văn Bô buôn vải đưa cho chúng tôi hàng xúc tít-xuy, ka ki để
may quần áo cho đàng hoàng khi ra mắt công chúng.
Ngày 2 tháng Chín năm 1945, Ông Cụ mặc bộ ka ki do anh Phú Thịnh may, đứng trên lễ đài Ba Đình long trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập trước đồng bào mình và trước toàn thế giới.