Việc quản lý các công trình công cộng tại Việt Nam giống một kịch bản phim truyền hình kiểu cũ: đứa con biết buôn bán, nhặt tiền lẻ mang về báo hiếu sẽ được mẹ quan tâm hơn đứa con nghệ sĩ.
Bên trọng, bên khinh
ĐỨC HOÀNG
Một cuộc
tranh luận về quản lý và khai thác vỉa hè tại thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh
có thể kéo dài tới 10 năm. Rất căng thẳng, thu hút sự quan tâm của toàn bộ xã hội.
Từ thời ông Đoàn Ngọc Hải xuống phố dẹp vỉa hè đến tận đầu tháng 8/2025 này, TP
Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục thảo luận về các phương án quản lý vỉa hè. Một logic
hiển nhiên: đó là nơi sinh ra tiền.
Trong vùng
kinh tế xám, không được pháp luật thừa nhận, vỉa hè là nơi đỗ xe của các cửa
hàng, công ty mặt phố, là nơi những gánh hàng rong buôn bán. Trong vùng kinh tế
hợp pháp, có những bãi giữ xe, trạm sạc, các kios kinh doanh hàng hóa và dịch vụ
được cấp phép. Không ai thống kê được giá trị tiền bạc mà hạ tầng vỉa hè đóng
góp vào GDP. Và cũng không ai thống kê được bao nhiêu phần giá trị đó chảy vào
ngân sách nhà nước, bao nhiêu để "nuôi" các bên liên quan khác.
Đó là
motif của đứa con chịu khó chạy chợ, buôn bán. Nó luôn nhận được sự quan tâm đến
mức thiên vị. Còn có những đứa con cũng là hạ tầng công cộng nhưng không biết
"nhặt tiền lẻ". Chúng được xây dựng để chăm sóc đời sống văn hóa-tinh
thần của người dân: công viên, nhà hát, nhà triển lãm, thư viện…
Theo một kịch
bản đậm chất làng quê, những đứa con nghệ sĩ này sẽ phải sống một kiếp tủi thân
nếu không muốn nói là bị kỳ thị.
Hơn 20 năm
trước, lần đầu tiên Đại học Kiến trúc Hà Nội thi "đề phụ". Các thí
sinh thay vì chỉ phải vẽ một bài tả khối (tượng đầu người), sẽ phải tự sáng tạo
một bố cục theo chủ đề. Khi thầy giáo luyện thi hỏi tôi: "Nếu người ta yêu
cầu vẽ một biểu tượng của quê hương em thì em vẽ cái gì?". Tôi đã trả lời
rất tự tin: "Em sẽ vẽ tòa nhà cánh diều".
"Nhà
cánh diều" khi đó là một biểu tượng của thành phố Hải Phòng và niềm tự hào
của những cư dân thành phố như tôi. Khác với những công trình thời Pháp, với bến
phà số 0 mang tinh thần cách mạng, với cánh hoa phượng đỏ truyền thống, nó là
biểu tượng cho sự phát triển của thành phố: một công trình kiến trúc hiện đại,
với kết cấu mái thép như cánh diều bay giữa nền trời. Và hơn thế, nó là một tòa
nhà triển lãm. Nó thể hiện rằng đời sống tinh thần của người dân Hải Phòng được
nâng cấp lên một tầm mới.
Suốt gần
20 năm, "Nhà cánh diều" gần như không được quan tâm tu sửa, bảo trì định
kỳ. Hàng loạt hạng mục từ mái vòm, hệ thống đèn, lan can, tường nhà... đều đã
hoen gỉ, bong tróc, hư hỏng. Cảnh quan xung quanh thì cỏ dại mọc um tùm, tạo ra
một khung cảnh hoang tàn. Cơn bão Yagi năm 2024 đã "lột trần" sự xuống
cấp của công trình, khiến phần mái bị phá hủy nặng nề, trơ khung sắt. Bây giờ,
chính quyền thành phố đang phải đối mặt với lựa chọn khó khăn: sửa chữa tốn kém
hay phá bỏ hoàn toàn - một kết cục gây lãng phí vô cùng lớn.
Được xây dựng
từ năm 2004, chỉ sau một năm đầu hoạt động sôi nổi (với sự hào hứng của các cư
dân như tôi), các sự kiện tại "Nhà cánh diều" thưa dần rồi gần như vắng
bóng. Công trình với quy mô hàng chục hecta, sức chứa hàng nghìn người, chỉ tổ
chức được vài sự kiện mỗi năm. Để duy trì hoạt động, đơn vị quản lý đã cho các
doanh nghiệp thuê lại mặt bằng làm kho chứa hàng. Việc xe nâng, xe tải thường
xuyên ra vào đã làm hư hỏng nền gạch và kết cấu bên trong. Dù đã có những đề xuất
điều chỉnh quy hoạch, kêu gọi đầu tư từ năm 2010, nhưng đến nay hầu hết các hạng
mục vẫn "nằm trên giấy". Để rồi có kết cục hôm nay.
Nó trở
thành một đại diện cho hàng loạt tính chất của nhiều công trình công cộng tại
Việt Nam: đầu tư theo phong trào, thiếu tầm nhìn dài hạn; khai thác kém hiệu quả;
chuyển đổi công năng sai mục đích; thiếu cơ chế thu hút nguồn lực xã hội; chỉ
xây, không sửa; và cuối cùng là thiếu cơ chế quy trách nhiệm cho đơn vị quản
lý.
Nhà cánh
diều không phải là câu chuyện lãng phí lớn nhất, nhưng nó có tính biểu tượng
cao: công trình tiêu biểu của một thành phố lớn nhất đất nước, từ chỗ sinh ra để
chăm sóc đời sống tinh thần của nhân dân, khi "bí ý tưởng" đã trở
thành… kho chứa hàng, tức là loại hình công trình kiến trúc ít giá trị gia tăng
nhất. Kho chứa hàng chỉ cần là một hình lập phương, chứ không cần một kết cấu
thép mái uốn cong đầy nghệ thuật. Ở đây, sau khi được cho đi học mỹ thuật, chỉ
một vài năm không làm ra tiền, ngay lập tức người con thứ này đã bị ép ra chợ đầu
mối làm bốc vác, dùng đôi bàn tay búp măng được đào tạo để cầm cọ, vác những
bao khoai tây hòng kiếm chút tiền lẻ.
Không khó
để tìm những bi kịch tương tự ở khắp miền đất nước, với những hạ tầng văn hóa
và thể thao bị biến thành nơi nhặt tiền lẻ - cao thì cho thuê tổ chức tiệc cưới,
thấp thì làm kho chứa hàng - chỉ vì cơ quan chủ quản… không còn biết làm gì với
nó.
Một đất nước
sẽ không thể phát triển nếu thiếu đi những công trình văn hóa, những hạ tầng
chăm sóc đời sống tinh thần của người dân. Chúng không phải lúc nào cũng làm ra
tiền ngay. Chúng cần một chiến lược khai thác hiệu quả, lâu dài, thậm chí là cơ
chế để sử dụng ngân sách cho văn hóa duy trì hoạt động liên tục. Điều đáng nói
là ngân sách chi cho phát triển văn hóa lúc nào cũng có, nhưng để tổ chức một sự
kiện có ý nghĩa, trên hạ tầng đã xây dựng, lại luôn cần một kế hoạch dài hơi.
Ví dụ, một
thành phố có thể có một nhà triển lãm đẹp, và 100 tỷ mỗi năm cho các chương
trình xúc tiến thương mại, du lịch. Nhưng nếu thiếu một kế hoạch, họ sẽ vẫn
không thể tổ chức nổi 2 hoặc 3 cái hội chợ xúc tiến. Họ vẫn bỏ hoang cái nhà
triển lãm và phải giải ngân 100 tỷ kia cho chuyện ít ý nghĩa hơn (xây cổng chào
chẳng hạn).
Hoặc, cũng
là 100 tỷ, và cũng có một nhà thi đấu lớn, nhưng tổ chức được giải thể thao hay
không, lại cần một tầm nhìn chiến lược khác. 100 tỷ vẫn có thể bị tiêu phí và
nhà thi đấu có thể vẫn bị bỏ hoang. Thực tế, chúng bị bỏ hoang rất nhiều ở khắp
miền đất nước.
Nếu không
nghiêm túc nghĩ về chiến lược cho những nhà triển lãm, những nhà hát, bảo tàng,
nhà thi đấu, sân vận động đã và sẽ được xây khắp miền đất nước, sẽ đến một lúc
chúng ta không có gì hơn là một chuỗi trung tâm tiệc cưới hoặc kho chứa hàng được
thiết kế cầu kỳ.
Nguồn: An Ninh Thế Giới cuối tháng