“Giọt nước mắt” đem “hòa lẫn với máu” thì thành “huyết lệ”, đem viết trên giấy thì thành “máu tươi thắm con quốc”. Điển tích “con quốc” nói về bi kịch mất nước đau đớn nhất của Thục đế xưa. Với Phan Bội Châu, còn hơn thế, máu hòa với nước mắt kết thành “huyết lệ” của bi kịch mất nước.


“Huyết” (máu), “lệ” (nước mắt) đã thành cổ mẫu của văn hóa nhân loại, thường có trong đề tài chiến tranh. Vì nạn gươm đao làm sao tránh được máu chảy. Và không một sự an ủi nào có thể ngăn được dòng nước mắt của người chinh phụ trong đêm. Hai hình tượng biểu cảm rất cao cho bi kịch được ghép lại thành “huyết lệ”, không dành riêng cho chiến tranh nữa mà cho bất cứ trường hợp nào, trong hoàn cảnh đau đớn, bi thảm nhất. Nước mắt thì trong suốt, còn “huyết lệ” luôn long lanh sắc màu của máu, càng làm cho biểu tượng đậm chất bi kịch. Vì có gì quý hơn, xót hơn và thiêng liêng hơn máu đâu.

Có thể dòng chảy “huyết lệ” có ở miền thượng nguồn khu rừng cổ Kinh kịch Trung Quốc. Tiêu biểu là hí khúc “Hồng nhạn sao thư”, kể rằng do chiến tranh Tiết Nhân Quý phải xa vợ Vương Bảo Xuyến đằng đẵng đã 18 năm.

Ngày nọ, Vương Bảo Xuyến đang cắt cỏ ngoài đồng bỗng nghe thấy tiếng kêu của hồng nhạn. Bảo Xuyến chợt nghĩ nhờ chim chuyển cho chồng lá thư. Giữa đồng làm gì có giấy mực, nàng xé miếng vải áo, cắn ngón tay, hòa máu tươi và nước mắt thành mực viết những con chữ khắc khoải nỗi nhớ, đau đớn đợi chờ…

Vợ chồng son xa nhau 18 ngày đã dài, đây là 18 năm, thì hết xuân. Không hề có cảnh chém giết nhưng vẫn thấy chiến tranh đã “giết” biết bao người, cả người ra trận, cả người ở lại. Có khi cái chết của chinh phụ còn đau đớn, dai dẳng hơn nhiều… Một lời kết án chiến tranh sâu sắc, ai oán. Từ đó giọt biểu tượng “huyết lệ” rơi vào nhiều mảnh đất văn chương…

Thi nhân Bạch Cư Dị trồng cây thơ, kết trái giọt “huyết lệ”, không chỉ có trong “Trường hận ca” nữa mà cứ “lơ lửng” mãi mãi trong bầu trời văn hóa nhân loại, trong thế giới nội cảm những ai tri âm, đồng cảm cùng mong muốn hòa bình.

Chuyện rằng quân An Lộc Sơn làm phản, tiến thẳngđến Kinh đôTrường An. Vua tôi nhà Đường phải chạy đến đất Thục ở Tứ Xuyên. Khi đến núi Mã Ngôi, Cấm quân Đại tướng là Trần Huyền Lễ cùng Thái tử Lý Hanh kích động binh sĩ đòi giết Dương Quý Phi mới chịu phò vua đánh giặc. Trong bước đường cùng, Đường Huyền Tông đành ban cho Quý Phi cái chết. Năm đó nàng 38 - cái tuổi mặn mà, nồng nàn nhất.

Ai cũng biết Huyền Tông - Đường Minh Hoàng yêu Quý Phi đến mức nào, nên đó là bi kịch lớn nhất cho cả hai: “Quân vương yểm diện cứu bất đắc/ Hồi khan huyết lệ tương hòa lưu” (Cứu không nổi, vua đành bưng mặt/ Khi nhìn lại, nước mắt pha máu đã chảy ròng ròng).

Ai “nhìn lại”? Hiểu Huyền Tông nhìn, thì người có “máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng” là Quý Phi. Nàng chết trong đau đớn nhất, vì phải chết, phải mãi xa người tình quân vương. Hiểu người tả hoặc bất kỳ ai “nhìn lại”, thì người nhỏ “huyết lệ” là Huyền Tông - đang ở tận đáy của bi kịch: là vua phải chạy giặc, là vua phải nghe quân cấm vệ giết người yêu…

Câu thơ không chủ ngữ để cho ai cũng thấy mình là “chủ ngữ” trong hoàn cảnh ấy, đề đồng cảm, sẻ chia. Hai chữ “huyết lệ” là “nhãn tự” của “Trường hận ca” và cũng có thể là “nhãn tự” cho các thi phẩm cùng đề tài.

“Huyết lệ” rơi vào bi kịch Ức Trai. Là con người của lưu lạc tha hương nên quê hương hiện lên tê tái, xót xa buồn trong thơ Tiên sinh. Ở bài “Thanh minh” (thơ chữ Hán) ông kể về bi kịch rất xa quê: “Thiên lý phần uynh vi bái tảo/ Thập niên thân cựu tận tiêu ma” (Xa nghìn dặm mồ mả không được lạy quét/ Trải mười năm thân cựu đã hao mòn).

Muốn về chỉ còn cách là nhờ “mộng”: “Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình/ Quy tứ dao dao nhật tự tinh/ Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý/ Không tương huyết lệ tẩy tiên uynh” (Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo/ Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ bày trong tâm trí)/ Bao lần nhờ mộng tìm về làng cũ/ Chỉ biết đem nước mắt pha máu để rửa mộ tổ tiên”.

Lời thơ ấy trong bài “Quy Côn Sơn chu trung tác” (Về Côn Sơn làm trong thuyền) đẫm nước mắt và máu. Nước mắt của nhớ thương, máu của đau xót. Cả chủ thể nhà thơ và khách thể người đọc, chỉ nguyên thủy một nỗi đau trong nghĩ suy về bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ với quê hương tiên tổ. Một nhân cách trước hết là phải có mối liên hệ máu thịt với nguồn cội, phải biết để tâm, day dứt, nhiều khi phải biết đau đớn về nguồn cội.

Trong “Tựa Truyện Kiều” (1820) Mộng Liên Đường chủ nhân viết “lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là "Đoạn trường tân thanh" cũng phải”. Có lẽ lời tựa này dựa vào câu thơ tả nỗi đau của Kiều: “Ruột tằm ngày một héo hon/ Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve/ Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê/ Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao" (câu 2833-2836). “Máu theo nước mắt” là “huyết lệ”. Chỉ từ ấy mới diễn tả sâu sắc nhất tâm trạng bi kịch của Kiều.

Giặc Pháp nhảy vào xâm lược nước ta. Nhiều chí sĩ yêu nước hưởng ứng phong trào Cần vương đuổi giặc, trong đó có nhà yêu nước Nguyễn Duy Cung (sinh 1843 tại làng Vạn Tượng, phủ Tư Nghĩa - Quảng Ngãi), nổi tiếng thông minh, thơ hay, đỗ cử nhân năm 1867 tại trường thi Bình Định. Ông là tác giả của “Huyết lệ tâm thư”(tên gọi khác“Hịch kêu gọi chống Pháp”, “Hịch bình Tây”).

Năm 1885, Pháp chiếm Quy Nhơn, Nguyễn Duy Cung cùng nghĩa quân chống giữ, thế yếu, phải lui về An Nhơn. Bị rơi vào tay giặc nhưng kẻ thù không lay chuyển được ý chí quả cảm người yêu nước. Trong tù ông xé vạt áo, cắn tay lấy máu viết “Huyết lệ tâm thư”, tỏ rõ tấm lòng ái quốc, kêu gọi sĩ phu và nhân dân tiếp tục chiến đấu. Trước đó ông có nhiều thơ viết về cảnh mất nước, như “Tư hương thi” (Bài thơ nhớ quê): “Quốc phá nam nhi đàn huyết lệ/ Ngự thù, hà nhạc đắc trùng quang” (Nước nạn thân trai đầm máu lệ/ Diệt thù mong sớm buổi trùng quang).

Phan Bội Châu với “câu thơ dậy sóng” xứng đáng là nhà yêu nước lớn, ở ngay cách dùng từ. Thơ ông đẫm máu và lệ. Tiêu biểu là những áng văn “Ai Việt Nam” (Xót thương Việt Nam), “Hải ngoại huyết thư” (Bức thư viết bằng máu gửi từ nước ngoài về)… Nhưng hình tượng “huyết lệ” thì ám ảnh trong “Lưu Cầu huyết lệ tân thư”(Tập sách mới viết bằng máu và nước mắt từ xứ Lưu Cầu) viết năm 1904.

Vốn là một vương quốc hải đảo độc lập, năm1879, Lưu Cầu bị đế quốc Nhật Bản xâm chiếm. Vua Lưu Cầu là Thượng Thái bị bắt rồi phế xuống thành hầu tước. Hoàn cảnh nước Lưu Cầu cũng giống với Việt Nam. Với lời văn thống thiết xúc động, Phan Bội Châu viết lại câu chuyện trên để gióng lên tiếng chuông về lòng yêu nước, kêu gọi đấu tranh khôi phục nền độc lập của nước nhà.

Trước đại chiến thứ nhất ít lâu, thực dân Pháp câu kết với bọn phản động Trung Quốc ở Quảng Đông bắt Phan Bội Châu. Trong tù, ông viết “Ngục trung thư” bi thương, xúc động: “Than ôi, phương trời chiếc bóng, mưa gió ngọn đèn, vét giọt nước mắt còn lại trong hai mươi năm này của tôi, hòa lẫn với máu, lượm lặt lịch sử một đời của tôi mà viết ra đây, hai mươi triệu đồng bào rất thân rất mến của tôi ơi! Có biết cho tôi chăng? Đọc quyển sách này, chắc còn thấy máu tươi thắm con quốc đang đầm đìa trên mặt giấy vậy”.

“Giọt nước mắt” đem “hòa lẫn với máu” thì thành “huyết lệ”, đem viết trên giấy thì thành “máu tươi thắm con quốc”. Điển tích “con quốc” nói về bi kịch mất nước đau đớn nhất của Thục đế xưa. Với Phan Bội Châu, còn hơn thế, máu hòa với nước mắt kết thành “huyết lệ” của bi kịch mất nước. Phan là nhà yêu nước vĩ đại cả trong đời, cả trong thơ văn.

Nội hàm và hình thức biểu tượng phù hợp với lối viết kỳ ảo, huyền thoại, ma mị… hẳn phải xuất hiện trong “Trường thơ Loạn” (1937 - 1946) ra đời ở Bình Định. Tất nhiên có trong thơ Hàn Mặc Tử - vị chủ soái: “Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?” (Những giọt lệ). Một trạng thái hoang mang tột độ, không ý thức được mình đang ở đâu, ai đang chi phối, hành hạ mình. Trong hoàn cảnh ấy, tâm trạng ấy, sắc hoa phượng ánh xạ một màu máu vào giọt nước mắt (giọt châu) nhỏ vào lòng…

Tượng hình một “huyết lệ” nhức nhối đến đau đớn, mà không dùng đến từ “huyết lệ”, phải là một tài năng. Đẹp một cách bi thương là một đặc trưng thơ Hàn Mặc Tử. Chủ thể “giọt châu” là ai? Ai nhỏ nước mắt? Không thấy. Cũng ẩn đi. Để ai đọc cũng thấy nước mắt mình nhỏ vào bi kịch đau khổ của thi nhân. “Huyết lệ” trở thành viên ngọc thơ rơi vào lòng người, cõi người. Và có thể, rơi vào chính cõi mình!

                                      NGUYỄN THANH TÚ

 

Nguồn: Văn Nghệ Công An