Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, với sự nở rộ của lí thuyết và đa dạng các tác phẩm văn học thế giới được dịch ở Việt Nam, chắc chắn sẽ còn không ít những giao thoa, tiếp nhận, ảnh hưởng của văn chương thế giới trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam đương đại.


Văn chương Việt trong dòng chảy toàn cầu

ĐỖ THỊ HƯỜNG

Toàn cầu hóa hiểu đơn giản nhất là sự hội nhập quốc tế. Xu thế này đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu và từng bước tác động đến tất cả mọi mặt kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

1. Toàn cầu hóa - hội nhập quốc tế tại Việt Nam

Khi thực hiện công cuộc Đổi mới theo nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xác định cần phải có những quyết sách chiến lược trong tình hình mới, mà ở đó quá trình hội nhập quốc tế được chú trọng đặc biệt. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ thực sự hội nhập với thế giới sau khi trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN, APEC... và kí kết những hiệp định đối tác chiến lược với hàng loạt quốc gia. Và trước “sự hội nhập không gì ngăn cản nổi của thị trường, các quốc gia - dân tộc và của các nền kĩ nghệ”, Việt Nam từng bước hội nhập sâu hơn vào quá trình toàn cầu hóa với việc kí kết hàng loạt những hiệp định về kinh tế lớn với các cường quốc, khu vực lớn trên thế giới như Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (VFTA) và Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đều vào năm 2016...

Dưới tác động của công cuộc toàn cầu hóa cùng với sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào quá trình này, Đảng ta cũng đề ra những chính sách và đường lối cụ thể cho sự phát triển của văn học nghệ thuật gắn liền với quá trình hội nhập, đặc biệt là có những định hướng cho đội ngũ sáng tác văn học nhằm: “Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển mạnh mẽ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kì mới.”

2. Những bình diện cụ thể của toàn cầu hóa - hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn học

Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, quá trình toàn cầu hóa - hội nhập quốc tế được diễn ra trên các bình diện cụ thể sau: sự giao lưu, hợp tác văn học nghệ thuật với các quốc gia trên thế giới (Nga-Liên Xô, Trung Quốc, châu Âu: Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Nhật Bản…); sự phổ biến của ngoại ngữ đến giáo dục, văn hóa, văn học, nghệ thuật; sự di cư (người Việt Nam ra nước ngoài từ nhiều lí do: học tập, lao động…) và người nước ngoài đến Việt Nam…

Cho đến nay chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước lớn như Trung Quốc, Liên bang Nga), Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp… Những quốc gia này đã nhanh chóng thiết lập sự hiện diện văn hóa của mình tại Việt Nam thông qua các trung tâm văn hóa ngôn ngữ. Những trung tâm văn hóa ngôn ngữ này có chức năng giảng dạy ngoại ngữ, kết nối và tổ chức các hoạt động quảng bá giới thiệu văn hóa, tổ chức các hoạt động hợp tác khoa học, nhân văn quốc tế. Các trung tâm văn hóa ngôn ngữ kết hợp với các đại sứ quán thiết lập những chương trình hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật rất phong phú và hấp dẫn, đẩy mạnh quá trình xúc tiến hợp tác và hội nhập của Việt Nam với thế giới. Những trung tâm văn hóa như thế này đã tổ chức rất nhiều sự kiện văn hóa, văn học, nghệ thuật tại Việt Nam; đặc biệt có những sự kiện được tổ chức thường niên, quảng bá mọi lĩnh vực của văn học nghệ thuật như văn học, điện ảnh, sân khấu, kiến trúc, hội họa…

Tất cả hoạt động giao lưu văn học và văn hóa này đều được xây dựng trên nền tảng của sự thông hiểu ngoại ngữ từ hai bên. Hiện tại, ngôn ngữ Anh, Trung, Hàn, Nhật, Nga, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những ngôn ngữ được đưa vào giảng dạy chính thức trong các trường đại học ngoại ngữ. Việc mở rộng giảng dạy ngoại ngữ cũng thúc đẩy tích cực các hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật. Đặc biệt, khi việc giảng dạy ngoại ngữ ngày càng nở rộ, kết hợp với hợp tác giáo dục của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng, tỉ lệ người Việt Nam học tập, làm việc và sinh sống ở nước ngoài ngày càng nhiều. Họ trở thành những người di cư-nhập cư. Trong đội ngũ này, có rất nhiều người làm công việc sáng tác. Và ngôn ngữ, cũng như rất nhiều yếu tố hội nhập quốc tế khác, có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình sáng tạo của họ.

3. Những tác động của toàn cầu hóa đến quá trình sáng tác văn học tại Việt Nam

Rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu những ảnh hưởng của văn học Nga đến sáng tác của các nhà văn Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng của văn học Nga thế kỷ XIX (xem Trần Thị Quỳnh Nga, Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2010). Rất nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra những ảnh hưởng của văn học phương Tây đến văn học Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn đầu thế kỷ. Có thể nói, nhờ quá trình tiếp nhận văn học phương Tây ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã thực sự bước sang giai đoạn hiện đại hóa, để có thể từng bước tiệm cận với sự phát triển của văn học thế giới.

Kết quả là chúng ta đã có những thành tựu rực rỡ của văn học 1930-1945 với sự phát triển của văn học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn. Sang các giai đoạn sau, dưới ảnh hưởng của chính trị, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học Nga và Liên Xô tiếp tục có những tác động đến quá trình sáng tạo của các nhà văn Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, giai đoạn 1945-1975 ở miền Bắc, văn học sáng tác theo mô hình hiện thực xã hội chủ nghĩa với những tác phẩm được lấy làm mẫu mực như Người mẹ của Gorky, Đội cận vệ thanh niên của Fadeev, Thép đã tôi thế đấy của N.Ostrovsky, Đất vỡ hoang của Solokhov…

Có thể thấy những ảnh hưởng qua cách đặt vấn đề chủ đạo, cách kết cấu cốt truyện, cách xây dựng nhân vật điển hình, cách giải quyết mâu thuẫn... khi xem xét ảnh hưởng của Đất vỡ hoang đối với bộ tiểu thuyết Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ. Bên cạnh đó, các nhà văn Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các nhà văn cận đại và hiện đại tiến bộ của thế giới đã được giới thiệu cho độc giả Việt Nam như: Pushkin, Gogol, Tolstoy, Turgenev, Chekhov, Hugo, Balzac, Daudet, Flaubert, Goethe, Heine, T.Mann, Defoe, W.Scott, Swift, Hemingway, M.Twain, O.Henri, J.London....

Sau 1986, đời sống văn học ở Việt Nam đã có sự khởi sắc mạnh mẽ, với sự đa dạng “các món ăn tinh thần”. Và không thể phủ nhận, nhiều những sự khởi sắc và đa dạng đó chính là ảnh hưởng của đời sống văn học thế giới ở nước ta, mà trước tiên là ảnh hưởng của văn học dịch. Lộ Đức Anh đã nói đến điều này: “Dịch thuật trong giai đoạn này đóng vai trò là một nguồn dẫn nhập những chuẩn mực văn chương mới từ bên ngoài, đặc biệt là những thể loại đại chúng.” Rất nhiều người cầm bút trẻ trong những năm Đổi mới đã chuyển hướng sang sáng tác những tác phẩm phục vụ nhu cầu giải trí của bạn đọc như trinh thám hoặc diễm tình. Còn đối với khu vực văn học truyền thống, văn học tinh hoa, diện mạo văn học cũng có sự đổi mới và cách tân mạnh mẽ. Nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương nói về không gian văn học Việt Nam sau 1986 như một không gian văn học mới từ những nhận thức và trải nghiệm đổi mới từ các thể loại thơ, truyện ngắn, phóng sự, bút kí, tiểu thuyết với “cảm hứng nhìn thẳng nói thật”, “tiếng nói cá nhân, cái nhìn sâu vào nội cảm”, “tính năng động chưa hoàn kết” và “tính lưỡng lự hiền minh”. Bên cạnh những trải nghiệm mới về tư duy, nhà nghiên cứu cũng nói về những trải nghiệm mới trong bút pháp nghệ thuật, với sự xuất hiện của một loạt những cây bút cách tân tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Y Ban…

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, giai đoạn này với sự cởi mở hơn hẳn so với giai đoạn trước, những hiện tượng cách tân của văn chương thế giới như Dostoevsky, Kafka, James Joyce, Marcel Proust, Albert Camus đã để lại dấu ấn nhất định trong văn học Việt Nam đương đại. Ông phân tích kĩ những dấu vết của Dostoevsky trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (cụ thể là Không có vua), dấu vết của Camus trong tác phẩm của Nguyễn Việt Hà, dấu vết của kỹ thuật dòng ý thức của Proust trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Cũng với chủ đề các thế hệ nhà văn sau Đổi mới, nhà nghiên cứu Phong Lê bày tỏ sự ấn tượng trước một thế hệ trẻ tuổi ngoài 20, 30 của những 7X, 8X đương thời như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Bích Thúy, Phan Hồn Nhiên, Nguyễn Trương Quý… Nhà nghiên cứu cũng bày tỏ một sự bứt phá hơn nữa ở họ và cả niềm tin vào những thế hệ tương lai sau này: “Tôi nghĩ đến một thế hệ viết mới là đại diện đích thực cho văn học tương lai - vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của chính hoàn cảnh hôm nay; một thế hệ trong tư cách một đội ngũ, vừa làm chủ được các phương tiện thông tin, vừa tiếp cận và tiếp nhận được tinh thần và dấu ấn thời đại. Một thế hệ không chỉ ở lứa tuổi 7X và 8X đang là chủ lực hôm nay mà phải là 9X, hoặc còn đang ở bậc học phổ thông cơ sở và mẫu giáo.”

Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, với sự nở rộ của lí thuyết và đa dạng các tác phẩm văn học thế giới được dịch ở Việt Nam, chắc chắn sẽ còn không ít những giao thoa, tiếp nhận, ảnh hưởng của văn chương thế giới trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam đương đại. Những sự giao thoa này, một cách vô tình hay cố ý, lại thể hiện rất rõ những vấn đề hiện/đương đại của văn chương thế giới. Có thể kể đến những sáng tác sinh thái của Trần Duy Phiên, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy… Cũng có thể nói đến những nhà văn nữ quyền như Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Dư Thị Hoàn… Cũng có thể nói đến những nhà văn chuyên trị văn học giới/ queer như Trang Hạ, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Quỳnh Trang, Vũ Đình Giang. Lại cũng có thể nói đến những nhà văn hậu nhân văn như Y Ban, Nguyễn Quang Thiều…

Đó là những tác động đến văn chương Việt Nam trong nước. Không thể không nhắc tới bộ phận văn học của các nhà văn Việt Nam di cư ra nước ngoài. Sự di cư này, từ sau 1975 đến nay đã trải qua nhiều cấp độ, liên quan đến những lí do di cư khác nhau. Nhưng quá trình di cư ấy đã làm thay đổi rất lớn đến sự sáng tạo của các nhà văn. Nếu như ở những thế hệ di cư đầu tiên, nhiều người vẫn dùng tiếng Việt để sáng tác thì ở những thế hệ di cư sau này, các nhà văn đã ý thức cao độ về việc sáng tác bằng ngôn ngữ nơi họ di cư đến, đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Pháp. Đó là trường hợp của rất nhiều nhà văn thuộc cả các thế hệ di cư thứ nhất và thứ hai như Linda Lê (sáng tác bằng tiếng Pháp), Phạm Văn Ký (sáng tác bằng tiếng Pháp và tiếng Việt), Nguyễn Hoài Hương (viết bằng tiếng Pháp), Trần Minh Huy (viết bằng tiếng Pháp), Viet Thanh Nguyen (viết bằng tiếng Anh), Lại Thanh Hà (sáng tác bằng tiếng Anh), Monique Trương (sáng tác bằng tiếng Anh), Ocean Vuong (sáng tác bằng tiếng Anh), Nguyễn Phan Quế Mai (sáng tác cả bằng tiếng Anh và tiếng Việt), Anna Mọi (sáng tác bằng tiếng Pháp), Khue Pham (sáng tác bằng tiếng Đức), Nuage Rose (Hồng Vân, sáng tác bằng tiếng Việt và tiếng Pháp)…

Sáng tác của những cây bút này về cơ bản đều được xây dựng trên những bối cảnh văn hóa và con người Việt Nam, góp phần đưa Việt Nam và văn học Việt Nam đến với thế giới, cũng mở rộng quỹ đạo của văn học người Việt ra thế giới. Có thể kể đến Nguyễn Hoài Hương (sinh năm 1976) với cuốn tiểu thuyết đầu tay L’ombre douce (Bóng mát dịu êm) đã đoạt giải nhất văn học Bỉ năm 2013. Tác phẩm kể về chuyện tình lãng mạn nhưng bi kịch giữa Mai và Yann, một cô gái Việt Nam và một người lính Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà văn từng nói “Hình ảnh Việt Nam luôn hiện hữu trong tâm hồn tôi. Và tôi đã chọn con đường văn học để thực hiện những hoài bão của mình.” Nhiều tác phẩm của họ đã được dịch và phổ biến trở lại trong nước, điển hình là các sáng tác của Linda Lê, Viet Thanh Nguyen, Ocean Vuong, Anna Mọi, Nuage Rose (Hồng Vân)…

Rất nhiều cây bút người Việt khi di cư ra nước ngoài vẫn sáng tác bằng tiếng Việt và tích cực tham gia đời sống văn học trong nước. Đó là Lê Minh Hà, Trần Vũ, Đoàn Minh Phượng, Thuận… Nhiều tác phẩm của họ đã được dịch ra tiếng Anh và được đón nhận nồng nhiệt trên thế giới. Đó là trường hợp của Thuận. Chị vừa là dịch giả văn học Pháp ra tiếng Việt, nhưng đồng thời các tác phẩm của chị lại được các dịch giả khác dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần đây nhất, những cuốn sách của Thuận do dịch giả Nguyễn An Lý dịch đã gây tiếng vang lớn và đạt những giải thưởng cao quý: China Town (bản tiếng Anh) đã được vào danh sách rút gọn Giải thưởng Dịch thuật quốc gia (NTA) của Hiệp hội Dịch giả văn học Mỹ (ALTA) năm 2023. Năm 2024, Nguyễn An Lý đã thắng giải PEN Translates cho bản tiếng Anh tác phẩm Biên sử nước (Water: A Chronicle) của Nguyễn Ngọc Tư và Thang máy Sài Gòn (Elevator in Saigon) của nhà văn Thuận. Đó là một thành công của Việt Nam trong việc quảng bá văn chương Việt ra thế giới.

Theo Nguyễn Thị Tuyết Nhung, văn chương của người Việt di cư bao gồm các khuynh hướng chính: cảm hứng lịch sử; cảm hứng về dân tộc, quê hương; cảm hứng xa xứ; cảm hứng hội nhập. Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa, văn học di cư của người Việt đang có xu hướng vận động theo hướng nhân văn và quốc tế: đó là việc trở thành công dân toàn cầu, là những cảm hứng về dân tộc, quê hương, là sự về nguồn và hội nhập với trong nước, là sự thích ứng, hòa hợp… với cả trong nước (cố quốc) và nước sở tại nơi họ di cư đến… Xu thế vận động này về cơ bản cũng tương thích với chính sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể là Nghị quyết số 36/NQ-TW (26/3/2004) của Bộ Chính trị: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”; “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc… Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lí do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”

Ở trên, chúng tôi đã trình bày cụ thể những nhân tố tác động quan trọng đến quá trình sáng tác văn chương của các tác giả người Việt và gốc Việt của nền văn học Việt Nam từ sau khi đất nước thực hiện công cuộc Đổi Mới và từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Đó là sự kiên định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của nước ta. Sự hội nhập được xây dựng trên nền tảng mở rộng giao lưu văn hóa, văn học nghệ thuật trên cơ sở phát triển kinh tế với công cụ là ngoại ngữ đã thúc đẩy sự phát triển của văn học từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Trong lĩnh vực sáng tác, việc các nhà văn Việt Nam tiệm cận với các nhà văn thế giới trong các khuynh hướng sáng tác mới và việc các nhà văn gốc Việt tiếp tục sáng tác và hướng về Tổ quốc chính là hai hướng đi có chung một mục đích - kiến tạo nên sự phát triển văn học Việt Nam theo biên độ văn chương thế giới. Bên cạnh đó là sự mở rộng và quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài theo cả con đường dịch thuật và sự di cư. Tuy nhiên, về cơ bản, sự đổi mới và hội nhập của văn chương Việt Nam từ góc độ sáng tác vừa đồng hành cùng quỹ đạo văn chương thế giới, vừa theo sát định hướng phát triển văn hóa nghệ thuật của đất nước: đổi mới những vẫn trên cơ sở kế thừa, hội nhập nhưng vẫn giữ vững được bản sắc và cá tính riêng của mình.

 

Nguồn: Văn Nghệ