Ở đời, hầu như ai cũng làm “lữ khách” trong một hoàn cảnh, môi trường với một lý do riêng nào đó. Bước vào văn chương, hình tượng lữ khách được quan tâm cả trong sáng tác và tiếp nhận. Cô Kiều cũng có tới 15 năm trong đời làm lữ khách đấy thôi. Một tác phẩm nghệ thuật hay luôn mang ý nghĩa phổ quát của kiếp người. “Truyện Kiều” là như vậy, ai đọc cũng thấy mình trong đó…
Ngày nay
khách du lịch cũng được gọi “lữ khách”, đúng với nghĩa đen là người khách đường
xa. Nhưng đấy là định nghĩa theo hành động bên ngoài, chưa quan tâm tới mục
đích tự thân bên trong. Có người tự rời bỏ quê nhà đi lang thang bất định, có kẻ
đi kiếm sống nơi xa, có người cô đơn ngay trong nhà mình… để rồi trăn trở trong
cuộc hành trình “tìm kiếm bản thể”. Lại có người tự nguyện làm lữ khách đi tìm
kiếm ý nghĩa cứu rỗi cuộc đời…
Cuộc hành
trình kể chuyện của Homer để viết “Iliad” và “Odyssey”; chuyến đi Tây Trúc thỉnh
kinh của bốn thầy trò Đường Tăng; của Dante trong “Thần khúc” đi xuyên qua ba
cõi âm; của thầy trò hiệp sĩ Đôn Kihôtê và Xantrô… cũng là hành trình của những
lữ khách. Nhà Phật quan niệm con người là lữ khách ở tạm bến trọ trần gian, các
tu sĩ đi khất thực là cách thực hành chánh niệm. Mỗi bước đi một bước thiền
hành tìm đến sự tỉnh thức và an lạc nội tâm.
Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 14 cụ thể hóa lời dạy của Phật tổ: Là những lữ khách trên hành
tinh này, chúng ta có mặt nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm. Phải cố gắng
làm những điều tốt lành và ích lợi để mang lại hạnh phúc cho người khác. Đó là
mục đích, ý nghĩa cuộc đời.
Trong văn
chương cổ trung đại thế giới xuất hiện nhiều hình tượng “kiếm khách”, “hiệp
khách”, “khất sĩ”… như là một cách phản ứng lại với trật tự cuộc sống. Cũng có
thể gọi chung họ là “lữ khách”. Triết học cổ Trung Hoa thường nhắc đến “Trúc
lâm thất hiền” (Bảy vị hiền nhân trong rừng trúc): Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu
Linh, Sơn Đào, Hướng Tú, Vương Nhung, Nguyễn Hàm sống thời cuối Ngụy đầu Tấn
(thế kỉ III) chán ghét chế độ đương thời bèn rủ nhau vào ẩn trong rừng trúc
đánh đàn, uống rượu, làm thơ, bàn cái đẹp Lão Trang...
Trước đó,
nghe tin Kê Khang là người “lập dị”, Chung Hội tìm đến, nhìn một lát rồi bỏ đi.
Kê Khang hỏi: “Đã nghe gì mà tới? Đã thấy gì mà đi? Chung Hội đáp: - Tới vì
nghe cái đã nghe. Đi vì thấy cái đã thấy”. Câu này đã toát ra quan niệm “triết
học về lữ khách”: “Thấy” (biết) thì tồn tại nên đi để “thấy”. Đời người dài ngắn
không quan trọng. Càng “thấy” (biết) nhiều càng sống nhiều. Muốn vậy phải đi
nhiều. Một hôm, Kê Khang ngồi gảy đàn, chợt có lữ khách tự xưng người cổ xưa đến
truyền cho Kê Khang khúc nhạc “Quảng lăng tán” (một trong mười đại danh khúc
Trung Hoa), dặn không truyền cho ai khác.
Thì ra
càng là “lữ khách” cổ xưa càng giữ nhiều bí quyết sống, nhất là bí quyết nghệ
thuật. Dòng sông triết học này thao thiết chảy đến đời Đường, Tống, phù hợp
thung thổ chất đất văn hóa, khí hậu thời đại mà tụ lại rồi kết thành các thiên
tài văn chương. Cũng từ đây hình tượng lữ khách tha hương mới rõ hơn. Vì xa quê
nên trong tâm trí, quê hương càng sâu đậm hơn. Cần ca ngợi Chế Lan Viên là một
tài năng triết học khái quát điều này bằng thơ: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”.
Có thể coi
Trần Tử Ngang (661- 702) là người đưa ra “tuyên ngôn” bằng thơ về lữ khách cô
đơn trong kiệt tác “Đăng U Châu đài ca”: “Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến
lai giả/ Niệm thiên địa chi du du/ Độc thương nhiên nhi thế hạ” (Trước không thấy
người xưa/ Sau không thấy kẻ sắp đến/ Nghĩ trời đất mênh mông không cùng/ Một
mình bùi ngùi nhỏ nước mắt). Đây không phải là cuộc hành trình vật lý, có thật
mà là hành trình tâm lý, tưởng tượng. Một mình lữ khách tương phản triệt để với
không gian không cùng. Nỗi cô đơn càng tăng bội phần. Nước mắt nhỏ ra ngoài, nỗi
cô sầu lặn vào trong.
Tương truyền,
thời trẻ Lý Bạch mặc áo trắng, đeo bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường. Tham
quan hầu hết cảnh đẹp hồ Động Đình, sông Tương, Dương Châu, Giang Hạ… Năm 30 tuổi
tiếng tăm vang đến triều đình. Được mời làm quan, ông không nhận. Năm 735 rong
chơi qua nước Tề, Lỗ, được những ẩn sĩ nổi tiếng đương thời rủ lên núi Tổ Lai
thưởng ngoạn … Không là “lữ khách”, chắc chắn không có nhà thơ Lý Bạch, càng
không có thi phẩm “Tĩnh dạ tứ” bất tử: “Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa
thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương!” (Đầu giường ánh
trăng sáng/ Ngỡ mặt đất phủ sương/ Ngẩng đầu ngắm trăng sáng/ Cúi đầu nhớ quê
hương). Bài này hay đến mức phổ quát cho tất cả những ai xa quê, nhớ về quê.
Không còn là thơ thông thường, đó là tiếng lòng con người.
Cuộc đời lữ
khách Đỗ Phủ vất vả đau khổ đúng với nghĩa đen. Sự kiện An Lộc Sơn năm 755 khiến
Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không ở đâu lâu, còn thêm đói ăn và sự
bạc đãi của triều đình. Ông trở thành một nhà thơ của dân đen đồng cảm với những
đau khổ, bất hạnh. Nỗi lòng quê cũ (“cố viên tâm”) tuôn thành lệ hòa vào con chữ
tượng hình thành nỗi đau: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô chu nhất hệ
cố viên tâm” (Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước/ Con
thuyền lẻ loi thắt chặt tấm lòng nhớ về vườn cũ).
Đề tài lữ
khách tha hương trong thơ Đường, Tống gắn liền với mã văn hóa “nghịch lữ” (được
hiểu là quán trọ ven đường) đáng chú ý. Lý Bạch từng viết: “Phù, thiên địa giả,
vạn vật chi nghịch lữ; quang âm giả, bách đại chi quá khách” (Trời đất là quán
trọ của muôn vật; thời gian là khách ghé của trăm đời). Chảy từ miền thượng nguồn
Phật, Lão, theo thời gian được phù sa văn hóa bồi đắp, trở thành một mã “liên
văn hóa” giàu có ý nghĩa nuôi dưỡng một quan niệm: “Nhân sinh như nghịch lữ”
(cuộc đời như quán trọ) - một câu thơ nổi tiếng của Tô Thức.
Có thể lý
giải cơ sở xã hội của hình tượng lữ khách này, là khát vọng kiếm tìm hạnh phúc
hay tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Hình như ở đâu, đời nào cũng thế, con người ta tồn
tại trong ý nghĩa. Hết ý nghĩa thì cuộc đời dừng lại. Cứu độ chúng sinh chẳng
phải là một ý nghĩa phổ quát cao cả của nhà Phật đó sao. Có lẽ dòng tư tưởng
này chảy vào đời Đường, Tống nuôi dưỡng nhiều nhà thơ viết về lữ khách hoặc là
lữ khách nhà thơ. Có người đi làm “ẩn sĩ” thì cũng là một cách để làm “lữ
khách” trong thế giới tâm trạng mình. Đến lượt đời Đường, Tống lại thành nguồn
mạch nuôi dưỡng các thi nhân hậu thế.
Thôi Hiệu
nổi tiếng với “Hoàng Hạc lâu” mang âm hưởng “sầu nhân thế”: “Nhật mộ hương quan
hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Trôi theo dòng tâm trạng buồn nhớ
quê, trên con thuyền thi ca Thôi Hiệu, khi cập bến ở thơ Huy Cận đầu thế kỷ XX,
hình tượng lữ khách không mấy thay đổi, cả trang phục và tư duy: “Lòng quê dợn
dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Vẫn thấy trong thơ Nguyễn
Bính có bóng dáng lữ khách và không gian biệt xứ trong thơ Đỗ Phủ: “Sương phủ
lưng đồi rặng núi xa/ Thương ôi! Lữ khách nhớ quê nhà/ Mấy thu mưa gió ngoài
thiên hạ/ Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?” (Bắt gặp mùa thu).
Đến “Tống
biệt hành” của Thâm Tâm, vẫn có bóng dáng tráng sĩ Kinh Kha rắn rỏi, kiên quyết
trong văn chương Trung Hoa, nhưng nỗi buồn đã có chút hiện đại: “Ta biết người
buồn chiều hôm trước…/ Ta biết người buồn sáng hôm nay”. “Biết” được, tức (ta)
phải thấu tỏ nguồn cơn ra đi. Chữ “biết” này cho thấy “ra đi” là một người khác
(người ấy). Khối “sầu” đặc rắn trong thơ cổ, đến đây “mềm” ra chút ít, nhờ san
sẻ cho người thứ hai.
“Chiều” của
Hồ Dzếnh, rất lạ: “Tôi là người lữ khách/ Màu chiều khó làm khuây/ Ngỡ lòng
mình là rừng/ Ngỡ hồn mình là mây/ Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên
cây...”. “Tôi” chỉ khoác áo lữ khách ngày xưa đi trong mênh mang biển sắc màu
thời gian. Đi trong chiều nên càng cô đơn, đến mức nhập thân vào vũ trụ (ngỡ là
mây, là rừng). Có một bóng dáng Trang Chu không biết mình hóa bướm hay bướm hóa
mình trong “Tề vật luận” của Trang Tử.
Ý thơ đẩy
hồn thơ về miền thượng cổ. Không biết mình hóa mây rừng hay mây rừng hóa mình.
Nhưng chỉ một làn khói thuốc mỏng mảnh làm thức tỉnh cả lòng người và vũ trụ.
Cái mỏng mảnh nhiều khi có sức mạnh lớn. Mỏng mảnh nhưng đưa mùi thơm của thuốc
bay xa - sản phẩm thời hiện đại. Là cầu nối của quá vãng xa xưa và hiện tại trước
mặt, “Chiều” là một cảm thức thời gian, hơn thế, là một triết học về thời gian
với các chiều kích đối lập trong các phạm trù tồn tại, hữu hạn của kiếp người.
NGUYỄN
THANH TÚ
Nguồn: Văn Nghệ Công An