Ai đã đọc truyện Nam Cao chắc hẳn sẽ thấy những nhân vật “ông giáo” trong “Lão Hạc”, Điền trong “Giăng sáng”, Hộ trong “Đời thừa” và thầy giáo Thứ trong tiểu thuyết “Sống mòn”… đều là “phiên bản” ngoài đời của chính tác giả.


CON NGƯỜI "THẬT" CỦA NAM CAO QUA GIAI THOẠI VĂN HỌC

TRẦN NGỌC TUẤN

Nếu “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài), thì cũng có thể hiểu thêm là, mỗi tác phẩm đều phản chiếu bóng dáng cuộc đời thật của nhà văn vào trong đó. Suy ngẫm này rất đúng với trường hợp của nhà văn Nam Cao.

Ai đã đọc truyện của Nam Cao chắc hẳn sẽ thấy những nhân vật “ông giáo” trong “Lão Hạc”, Điền trong “Giăng sáng”, Hộ trong “Đời thừa” và thầy giáo Thứ trong tiểu thuyết “Sống mòn”… đều là “phiên bản” ngoài đời của nhà văn Nam Cao – Trần Hữu Tri.

Có một thi sĩ Nam Cao, và những trang viết cho thiếu nhi

Là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, người “đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam” (Từ điển Văn học, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, 1978), nhưng ít người biết rằng lúc đầu khởi nghiệp cầm bút, chàng trai Trần Hữu Tri cũng đã có buổi đầu nuôi giấc mộng thành nhà văn lãng mạn và thi sĩ. Trước đó, năm 1938, Nam Cao cho ra đời bài thơ “Ngày xuân” thể hiện cái giọng điệu mỉa mai, hằn học và pha chút hài hước đầy chua xót. Trong đó có những câu: “Cái kiếp con nhà văn/ Cứ mỗi độ xuân sang/ Lại cảm lăn cảm lóc/ Như là bàn gãy chân…/ Trên cành trụi đẫm mưa/ Lộc mới đua nhau nở/ Xuân đẫm óc nhà thơ/ Nảy vọt bao thi tứ…”

Có thời Nam Cao làm thơ với bút danh Nguyệt và xuất hiện nhiều trên thi đàn. Năm 1941 (năm truyện ngắn Chí Phèo ra đời), thi sĩ Nguyệt đã sáng tác nhiều bài thơ mang cái sầu của Thơ mới. Trong một bài thơ, Nam Cao viết: “Đời tối quá, em ơi tôi nguyện ước/ Một bàn tay thắp hộ lửa lòng lên/ Một tấm thân ấm áp ghé ngồi bên/ Câu dìu dịu vỗ về trong nhức nhối/ Đôi tai bạn để nghe lời chim nói/ Em xa xôi tôi cô độc em ơi”.

Có lẽ về sau, khi nhận ra bộ mặt thật của cuộc sống, Nam Cao đã chuyển hướng sáng tác để trở thành nhà văn hiện thực. Điều này thể hiện rất rõ trong các “tuyên ngôn nghệ thuật” của ông, “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối” (Giăng sáng).

Thoạt nhìn bên ngoài, con người Nam Cao lạnh lùng, ít nói, khó gần, như chính ông đã tự bạch trong truyện ngắn Cái mặt không chơi được. Nhưng kỳ thực Nam Cao sống rất tình cảm, giàu tâm hồn với thế giới tuổi thơ. Từ khi còn làm phóng viên cho báo Kịch Bóng ở Sài Gòn, Nam Cao đã có nhiều trang viết dành cho thiếu nhi. Sau này khi ra Hà Nội dạy học trường tư thục, tác phẩm viết cho thiếu nhi của Nam Cao được nhà xuất bản Tân Dân in đều đều. Trong đó có những truyện như: Phiêu lưu, Đầu đường xó chợ, Con mèo mắt ngọc, Bảy bông lúa lép, Ba người bạn, Nụ cười… Mới đây, NXB Kim Đồng đã tái bản Con mèo mắt ngọc, bản do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn.

Một giai thoại về lòng nhân ái

Theo tư liệu của nhà văn Tô Hoài, trong “Tự truyện” và “Những gương mặt”, có một giai thoại rất xúc động, nói lên con người rất thật của Nam Cao.

Tô Hoài kể lại: Cuối năm ấy, vì bí đề tài viết, thầy giáo Trần Hữu Tri (lúc này dạy học ở Hà Nội) bèn rủ Tô Hoài lên tàu vi vu một chuyến để tìm đề tài, cảm hứng viết. Nửa đêm, họ từ Hà Nội vào đến Nam Định. Hai bạn văn lục tìm chỗ thuê ngủ qua đêm nhưng ở đâu cũng chật khách. Tô Hoài và Nam Cao bèn đến nhà săm (nhà trọ thường có gái điếm trước đây) Đông Dương gần Bến Củi để xem còn chỗ trọ không, nhưng cũng kín chỗ. Hai chàng đang chuẩn bị lui gót thì nghe tiếng một cô gái gọi lại: “Các anh ở tạm phòng em vậy. Em đi ngủ nhờ phòng bạn cũng được”. Hai nhà văn bằng lòng. Nhưng rồi sau đó cô gái chẳng đi ngủ nhờ ai cả, mạnh dạn mở chăn vào nằm giữa hai nhà văn.

Tác giả “Dế mèn phiêu lưu ký” kể tiếp: Đến khuya, tỉnh giấc, Tô Hoài nghe ri rỉ tiếng khóc của cô gái và tiếng rì rầm khuyên can gì đó của Nam Cao. Sáng hôm sau, Tô Hoài nghe Nam Cao kể lại mới biết cô gái ấy là em của một người bạn của Nam Cao ở Sài Gòn. Cô bị chồng phụ bạc, từng cắt tóc đi tu và rồi lưu lạc đến đây. Nam Cao khuyên cô hoàn lương và giúp cô ta ít tiền.

Rồi đôi bạn văn trở ra Hà Nội. Khoảng mười ngày sau, Nam Cao viết xong tác phẩm đặt tên là “Một đời người” dài hơn một trăm trang, viết theo đúng câu chuyện cô gái điếm kể lại đêm ấy ở nhà săm Đông Dương. Nam Cao đem truyện bán cho Nhà xuất bản Cộng Lực được 80 đồng (lúc ấy rất lớn).

Chiều hôm đó, Nam Cao lại rủ Tô Hoài đáp tàu xuống Nam Định. Nam Cao dự định trích 50 đồng tiền bản quyền tác phẩm đem biếu cô gái. Nếu không vì hoàn cảnh vợ con nheo nhóc ở quê, Nam Cao sẽ đưa cả 80 đồng cho cô ấy. Nhưng Nam Cao đã không gặp lại cô gái ấy, tác giả “Lão Hạc” buồn rầu, ray rứt, hối tiếc mãi về sau…

Từ Vũ Bằng đến làng Vũ Đại…

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nam Cao chủ trương sống đã rồi hãy viết, nhà văn chấp nhận làm anh tuyên truyền viên với những sáng tác gần gũi, dễ nhớ, dễ hiểu… Song người đọc vẫn may mắn được thưởng thức một tác phẩm mang đậm phong cách Nam Cao trước 1945, giàu ý nghĩa triết lý và thời sự – truyện ngắn “Đôi mắt.” Truyện này lúc đầu Nam Cao đặt tên là Tiên sư anh Tào Tháo, lấy từ câu nói của nhân vật Hoàng trong truyện khi thích thú nghe vợ mình đọc Tam quốc trước khi ngủ.

Và nguyên mẫu nhân vật Hoàng này chính là nhà văn Vũ Bằng, tác giả của “Thương nhớ mười hai”. Nhà văn Tô Hoài kể lại, trong kháng chiến chống Pháp, Nam Cao từ Hà Nam lên Việt Bắc, đã gặp vợ chồng anh Vũ Bằng đang tản cư ở vùng trung du Quế Quyển trên đường vào Chi Nê (Hòa Bình). Sau này, khi biết Nam Cao đưa mình vào “Đôi mắt”, Vũ Bằng nói bằng lòng với Nam Cao khi miêu tả mình như thế – con người mơ màng bước vào trong trường kỳ kháng chiến; cái anh chàng nửa chán đời nửa yêu đời; nửa thông minh, nửa dở hơi; vừa đi kháng chiến, vừa sợ kháng chiến, cứ khật khưỡng trong nước sôi lửa bỏng như thế…

Người ta nhớ truyện ngắn Chí Phèo vì có quá nhiều cái lạ. Và người ta còn nhớ Chí Phèo vì đã có sự trùng hợp kỳ lạ, ngẫu nhiên. Nam Cao đặt tên làng Vũ Đại trong Chí Phèo để mang tính điển hình và đả kích bọn cường hào ác bá của làng xã ngày trước. Nhưng chính Nam Cao không ngờ rằng ông đã ngã xuống hy sinh khi bị địch phục kích vào ngày 1-11-1951 tại làng có tên là Vũ Đại, thuộc xã Gia Xuân (Hoàng Đan, Ninh Bình). Thật là trớ trêu thay!

Nhưng sẽ không có sự mất mát trớ trêu trên, nếu Nam Cao là người… không tôn trọng kỷ luật của tổ chức. Năm 1958, tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã kể lại câu chuyện này cho nhà văn Anh Đức: Trước khi Nam Cao bị địch phục kích, ông đã đổi địa điểm chiến dịch với Nam Cao, nhưng Nam Cao không đổi vì ông tôn trọng tổ chức. Nguyễn Huy Tưởng nói: “Giả sử xảy ra cuộc hoán đổi hướng đi thực tế lần ấy, biết đâu tôi đã hy sinh vào chỗ của Nam Cao rồi cũng nên”.

 

Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM