‘Miền cỏ tranh’ là cuốn tiểu thuyết viết về miền Đông Nam bộ những năm tháng ‘gian lao mà anh dũng’ giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“Miền cỏ tranh” dày hơn 300 trang, đề cập trực tiếp đến
các địa danh Bù Đăng, Bù Bốp, Bù Na, Bù Gia Mập, Phước Bính, Phước Long, Bom
Bo, Đất Cuốc, Quảng Đức... Tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” chia làm 9 chương, với
nhân vật chính là trinh sát Võ Lượng.
Tác giả của tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” là nhà văn
Nguyễn Minh Ngọc, sinh năm 1957 tại Hà Tĩnh. Gắn bó với quân đội hơn 40 năm,
nhà văn Nguyễn Minh Ngọc nghỉ hưu với cấp bậc đại tá. Vì vậy, không có gì ngạc
nhiên khi gần như cả đời văn Nguyễn Minh Ngọc chủ yếu viết về chiến tranh và hậu
chiến, trong đó có thể kể đến tập truyện ngắn “Đất lành” và truyện dài “Đất
thiêng”. Nhà văn Nguyễn Minh Ngọc cũng là người viết kịch bản bộ phim truyền
hình “Cao hơn bầu trời” dài 50 tập về lực lượng không quân Việt Nam.
Với tiểu thuyết “Miền cỏ tranh”, nhà văn Nguyễn Minh
Ngọc đặt nhân vật trinh sát Võ Lượng giữa những đồng đội Tiểu đoàn 840, như một
điển hình những năm tháng kiêu hùng và bi thương. Sự khốc liệt của đạn bom và sự
can trường của cá tính, đã làm nên con người Võ Lượng và làm nên bức tranh cuộc
sống người Việt Nam trong chiến tranh vệ quốc.
Mảnh đất miền Đông Nam bộ thời khói lửa, từng xuất hiện
trong khá nhiều tác phẩm làm nên sự nghiệp của ba nhà văn được trao Giải thưởng
Nhà nước là Nam Hà, Trần Văn Tuấn và Chu Lai. Nếu nhà văn Nam Hà có bộ tiểu
thuyết “Đất miền Đông” hơn 2000 trang, thì nhà văn Trần Văn Tuấn có tiểu thuyết
“Rừng thiêng nước trong” và nhà văn Chu Lai có tiểu thuyết “Nắng đồng bằng”.
Chọn bút pháp khác với những đàn anh đồng nghiệp, nhà
văn Nguyễn Minh Ngọc xây dựng “Miền cỏ tranh” trên nền tảng chất liệu được sàng
lọc kỹ lưỡng. Nghĩa là tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” đan xen sự thật và hư cấu. Cao
trào của “Miền cỏ tranh” được đặt vào bối cảnh: “Từ sau Mậu Thân, trên toàn miền
Nam, phía cách mạng bị tổn thất nặng nề và gặp khó khăn nhiều bề. Hầu hết các
cơ sở cũ đều bị phá bỏ với hy vọng chuyến này “tiến về Sài gòn” thì không trở lại
nơi chốn giữa rừng xanh nữa. Tới khi bị tổn thất nặng, các lực lượng của ta phải
rút từ nội thành và các đô thị về lại căn cứ thì lâm vào cảnh trắng tay, …hầu hết
các cơ quan, đơn vị của ta đều không còn chỗ đứng chân. Bởi vậy, tất cả đều phải
dạt sang đất Miên”.
Tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” không mô tả chiến tranh, mà dựa vào không gian chiến tranh để khắc họa một cuộc giằng co giữa thiện và ác, giữa chân thành và thủ đoạn, giữa trong sáng và mưu mô. Vượt qua cái chết đã khó, mà vượt qua ích kỷ, vượt qua đê hèn còn khó hơn: “Mỗi con người đều có một số phận riêng, rất riêng, dường như tất cả được lập trình sẵn, thật khó có thể đổi thay. Tất cả như một cuốn phim tua nhanh trong tâm trí Võ Lượng, có đoạn vui, có khúc buồn, nhưng đọng lại vẫn là nỗi đau mất mát”.
Tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” lần mở quá khứ và trân trọng
quá khứ. Tác giả dành một sự cảm thông và chia sẻ cho những người cầm súng vì Tổ
quốc, vì phẩm giá con người: “Quãng đời lính chưa dài, nhưng cũng chẳng phải là
ngắn, kể từ khi rời khu Lê nhảy núi, con người luôn cưỡng lại số phận đã đi đến
tận cùng cuộc chiến. Trồng cây đắng hẳn không bao giờ cho trái ngọt. Võ Lượng
tâm niệm và sống đúng như vậy”.
Nhà văn Nguyễn Minh Ngọc không đặt nặng việc tô vẽ những
chiến công. Tiểu thuyết “Miền cỏ tranh” dắt người đọc đi qua chiến tranh để
trân trọng hòa bình, trân trọng từng khoảnh khắc được sống bình yên: “Trở lại
Bù Gia Mập, anh dừng xe bên đường. Con mắt người lính chiến như thể bị thôi
miên trước màu xanh vàng ngút ngát của trảng tranh. Những vạt cỏ tranh bị bom đạn
thiêu rụi, mưa xuống, tua tủa cả một lớp ngọn mầm nhọn hoắt như chông đang
giăng giăng. Màu xanh lá mạ. Chợt liên tưởng đến mảnh ruộng vẫn đi cày thuê hồi
còn ở quê nhà, không kìm nổi, Võ Lượng đưa ta dứt một túm cỏ tranh. Anh đưa một
cọng lên miệng nhấm. Đăng Đắng…”.
NNMT