Hiện nay có tới 70-80% sản phẩm điện ảnh nội địa tung ra thị trường là do tư nhân xuất vốn bỏ vốn. Mà làm phim về chiến tranh, ngoài nhiều yêu cầu phức tạp khác, thì đồng vốn bỏ ra là rất lớn. Chơi canh bạc không cầm chắc lỗ lãi, thắng thua trong tay này là điều hầu như các nhà làm phim tư nhân đều né tránh.


LÀM PHIM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC 

(Tham luận tại Hội thảo phim về đề tài chiến tranh, LHP Châu Á Thái BÌnh Dương 7/2025)

TÔ HOÀNG

Hình như cũng đã lâu lâu rồi, bước qua hai năm 2024 - 2025, mạch nguồn phim về đề tài chiến tranh mới lại có dịp khơi thông trong đời sống màn ảnh của nước ta.

Năm 2024 có phim “Đào, Phở, Piano” của đạo diễn Phi Tiến Sơn. Bước qua năm 2025 có phim “Địa đạo- Mặt trời trong bóng tối” của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Và nghe nói, vào khoảng tháng chín tới sẽ có bộ phim “Mưa đỏ” của nữ đạo diễn Đặng Thái Huyền.

Cũng nên nói ngay, ba bộ phim này đều ra đời trên cái nền của những dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc: 70 năm giải phóng Thủ đô, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 80 năm thành lập QĐNDVN, 50 Chiến dịch Thành cổ Quảng Trị, 80 năm thành lập nước. 

Có được ngần ấy bộ phim màn ảnh lớn, với sự đầu tư tiền bạc, công sức và chất xám cho xứng với tiêu chuẩn của phim điện ảnh, xứng với những tiêu chí của loại phim nghệ thuật là một điều rất đáng mừng.

Nói nay, vô tình tôi bỗng nhớ tới một thuở chưa xa…

Tôi muốn trở về với một thời kỳ hoàng kim của Điện ảnh Việt Nam – giai đoạn từ những năm 1986, 1987 (sau Đại hội Đảng lần VI) đến những năm 2000, phim truyện điện ảnh bị phim truyền hình và phim thương mại “ăn tươi nuốt sống” 

Trên cái nền bung nở chung của giai đoạn này, theo ý riêng tôi, dòng phim về đề tài chiến tranh đã gặt hái được những thành công như chưa bao giờ từng có.

Hãy nhớ tới những bộ phim như “Ngã ba Đồng Lộc”, “Hà Nội mùa đông năm 1946”, “Mùi cỏ cháy”, “Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành”, “Đời cát”, “Bến không chồng”, “Những người viết huyền thoại”, “Đừng đốt”..

Ngần ấy bộ phim màn ảnh lớn dành riêng cho mảnh đề tài chiến tranh trong vòng trên dưới một chục năm  – con số ấy phải coi là một kỷ lục, một chiến công, trên nền bức tranh chung sự tồn tại và phát triển của nền Điện ảnh dân tộc.

Nếu phim về chiến tranh ra đời trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1964-1975) hầu như chỉ nhắm đích đến là cổ súy cho lòng yêu nước, đề cao chủ nghĩa anh hùng; con người- nhân vật như bị bết dính vào nhau trong những tập thể khó tách bạch và vì thế phim mắc phải những căn bệnh công thức, giáo điều, sơ cứng cũng là điều dễ hiểu.

Phim về đề tài chiến tranh trong thời điểm sau Đổi mới – có thể nói là LẦN ĐẦU TIÊN thể hiện được cả cái BI lẫn cái TRÁNG, cả CHIẾN CÔNG lẫn NHỮNG MẤT MÁT HY SINH. Điểm càng đáng nói hơn là Con người trong những bộ phim này được bóc tách khỏi những ĐÁM ĐÔNG, trở thành những CÁ NHÂN, những THÂN PHẬN CỤ THỂ, vừa là NGƯỜI HÙNG của chiến trận vừa là NHỮNG SINH LINH hứng chịu mọi khổ đau, mất mát do chiến tranh đổ ụp xuống đầu, để vượt lên những nghịch cảnh, những thách đố.

Phim truyện màn ảnh lớn của chúng ta trong “kỷ nguyên vàng” ấy- cả phim về đề tài xã hội nói chung, phim về đề tài chiến tranh nói riêng- đã thực sự chín muồi, đã đi đúng quỹ đạo nghệ thuật; không thua kém gì các phim truyện trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Malaysia… Có những bộ phim về chiến tranh đã đụng chạm tới những yêu cầu nhân văn nhân bản mang tầm cỡ nhân loại như “Đời cát”, “Đừng đốt” để được ghi nhận tại các LHP khu vực và thế giới..

Tại sao điện ảnh chúng ta nói chung, phim truyện về đề tài chiến tranh nói riêng đạt tới KỶ NGUYÊN VÀNG NHƯ THẾ?

Theo chúng tôi có hai nguyên nhân cơ bản: 

1/ Đó trước tiên là có làn gió DÂN CHỦ, CỞI MỞ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ 6, năm 1986. Dám nhìn thẳng vào sự thật, tránh bệnh công thức giáo điều- tinh thần này khiến lĩnh vực duyệt kịch bản, duyệt phim; nhìn nhận, đánh giá phim vượt qua nhiều căn bệnh trước đây. Sinh hoạt văn học đi tiên phong bằng những đổi mới trên tờ báo “Văn Nghệ” với những bài ký như “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, “Vua lốp”, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tiếp tới là những vở kịch của Lưu Quang Vũ, là giải thưởng tăng cho các cuốn tiểu thuyết như “Nỗi buồn chiến tranh”, “Bến không chồng”, “Mảnh đất lắm người nhiều ma”…  không thể không ảnh hưởng tới không khí sáng tác của các nhà biên kịch, các đạo diễn.

Cũng không kém phần quan trọng là trong thời kỳ này phim Mỹ, Pháp cùng phim của các nước châu Âu, phim Hồng Kong, Đài loan, Nhật bản…được thoải mái, không bị cắt xén chiếu trên các màn ảnh, tivi nước ta.

Còn một nguyên nhân cũng rất cơ bản khác- rất quan trọng, đó là việc Nhà nước tiếp tục đầu tư vốn liếng cho việc làm phim. Tất cả những bộ phim về đề tài chiến tranh thuở ấy được nuôi dưỡng bằng bầu sữa bao cấp. Người nghệ sỹ được dành toàn tâm toàn ý cho công việc sáng tạo nghệ thuật; không hề phải lo tới việc lỗ lãi, có khách hay không. Nói điều này bây giờ xem ra có vẻ nghịch nhĩ. Nhưng nếu suy nghĩ theo hướng này: Phim về đề tài chiến tranh chủ yếu nhắm cái đích tuyên truyền, giáo dục, làm rạng rỡ cho non sông đất nước, tô thắm các trang sử dân tộc thì việc Nhà nước bao cấp cho dòng phim ấy lại là điều hợp lý và tự nhiên.

Bước qua cơ chế thị trường, khi đồng tiền và phép tính lỗ lãi hoành hành trên lĩnh vực làm phim, dòng phim chiến tranh –nói trên đại thể - đã bị tắc mạch.

Vì những nguyên do gì đây?

-Làn gió dân chủ vẫn còn đó, không những thế ngày cành trở thành một nếp sống, nếp suy nghĩ, phương hướng, xu thế hành động của toàn xã hội, trước yêu cầu hòa nhập với cộng đồng thế giới. Hầu như, trong lĩnh vực phim ảnh, mọi khai phá, mọi thể hiện mới mẻ, sâu sắc về phương diện phác họa nên diện mạo và gương mặt tinh thần của con người trong quá khứ chiến tranh, trong đời sống hôm nay không còn bị xét nét, cấm đoán, cắt chỗ này, loại bỏ chỗ kia. Thật là một lợi thế đối với giới sáng tạo.

Vấn đề nổi lên là ở những phương diện khác:

-Phim chiến tranh không cuốn hút được khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ tới rạp, sẽ thất thu ư? Thành công hút khách tới rạp và doanh thu của “Đào, phở và piano” và “Địa đạo- mặt trời trong lòng đất” đã khẳng định một điều: Nếu chúng ta làm ra những bộ phim về đề tài chiến tranh mà hay, mà hấp dẫn, mà đi đúng quỹ đạo nghệ thuật, người xem không hề quay lưng.

Việc thông thụt chỗ tắc nghẽn nằm ở một phương diện khác. Chúng ta đều biết, hiện nay có tới 70-80% sản phẩm điện ảnh nội địa tung ra thị trường là do tư nhân xuất vốn bỏ vốn. Mà làm phim về chiến tranh, ngoài nhiều yêu cầu phức tạp khác, thì ĐỒNG VỐN BỎ RA LÀ RẤT LỚN. Chơi canh bạc không cầm chắc lỗ lãi, thắng thua trong tay này là điều hầu như các nhà làm phim tư nhân đều né tránh.

Từ đây, hiển hiện rành rõ một kiến nghị: Nhà nước phải chất lên vai mình TRÁCH NHIỆM và NGHĨA VỤ ấy. Tức phải mở rộng hầu bao, đầu tư thích đáng cho những phim về chiến tranh . Đồng thời nếu những dự án làm phim chiến tranh của những hãng phim tư nhân mà đạt những yêu cầu cần thiết, Nhà nước cần chung lưng, phụ trợ về vốn liếng, theo tinh thần “thành công thì chia sẻ, rủi ro thì cùng chịu”

Là một người lính, đã trải qua 10 năm chiến tranh ở 2 mặt trận Bắc Đường Chín- Khe Sanh và Tây Nguyên- 2 chiến trường khá tiêu biểu cho sự ác liệt về mặt bom đạn và đói rét, đói ăn-bằng những gì đã sống trải-tôi tin rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước vẫn còn là một mỏ vàng, nhiều tầng, nhiều vỉa mà phim ảnh của chúng ta chưa đụng chạm tới được bao nhiêu.

Ví dụ, bạn trẻ biết không, trên khắp dọc ngang tuyến đường Trường Sơn thuở ấy, tuyệt nhiên không có một câu cầu nào cho xe chạy, cho quân đi được bắc bằng sắt thép. Bộ đội thường chọn những thân cây to, đốn ngã sao cho gốc ở bờ bên này, ngọn gác sang bờ bên kia làm thanh giầm chủ yếu cho cây cầu.

Ví như, ai có thể ngờ rằng chúng ta đã bắc được cả một hệ thống đường dẫn dầu từ ngoài Bắc, vượt qua sông sâu, núi cao vào tận tới chiến trường miền đông Nam Bộ.

Ví như, sau năm 1969, khi bom đạn Mỹ-Ngụy đánh phá quyết liệt tuến đường vận tải chiến lược 559 ngăn cản nguồn gạo từ hậu phương lớn chi viện cho tiền tiến, ở hai chiến trường B3 và B5, bộ đội đã phát nương chỉa lúa, trồng sắn  để tự túc 6 tháng lương thực, không nhận của miền Bắc.

Ví dụ, lính tráng toàn tuổi đôi mươi. Sao ở mặt trận không hề có chuyện hiếp đáp, không có dịch vụ “cung cấp gái” cho lính…Mà lính tráng vẫn sống hồn nhiên, khỏe khoắn.Tôi đã nghe một số Việt Kiều giải thích rằng do “phía bên các ông cho lính uống thuốc diệt dục”. Oan uổng thế đấy!

Đương nhiên những sự việc như thế đã là “chuyện nhỏ”, chuyện của quá khứ

Thập niên những năm 2020 cũng sắp qua được một phần tư. Cái ước ao của cụ Hemingway “giã từ vũ khí” hay của một nhà điêu khắc Xô Viết tạc nên bức tượng “Phá kiếm đúc lưỡi cày” để ông Nhikita Khrutsov tặng Liên Hiệp quốc…ý tưởng đó hôm nay trở nên xa vời, hầu như viễn tưởng.

Khi chiến tranh lấp ló ở ngay trươc ngưỡng của, nhân loại rât cần bấu víu vào lòng yêu nước, tinh thần dám xả thân, chủ nghĩa anh hùng, những điều đã trở thành chân lý như “ lấy ít thắng nhiều”, “con người quyết định tất cả chứ không phải là vũ khí”…thì những “chuyện nhỏ” như trên vẫn sống động, đầy sức thuyết phục, vẫn ánh lên tinh thần quật cường, của những dân tộc nhỏ bé không chịu khuất phục trước các siêu cường.

Từ đây có thể khẳng định: Phim về đề tài chiến tranh khi vượt ra khỏi biên giới nước ta- tin rằng vẫn có thể tìm lược tiếng đồng vọng, sự nghênh tiếp trên màn ảnh thế giới…