Họa sĩ Lê Thiết Cương qua đời ngày 17/7 ở tuổi 63, không kịp nhìn thấy cuốn sách cuối cùng của ông là tập tản văn ‘Tiếng chợ’ vừa được Nhà xuất bản Trẻ phát hành.
Họa sĩ Lê
Thiết Cương (1962-2025) không chỉ kiến tạo con đường riêng với dòng tranh tối
giản, mà ông còn đam mê viết lách. Sinh thời, họa sĩ Lê Thiết Cương đã in ba cuốn
sách “Thấy”, “Người và nhà” và “Trò chuyện với hội họa”.
Tập tản
văn “Tiếng chợ” dày hơn 200 trang, được Nhà xuất bản Trẻ gửi đến công chúng
đúng hai tuần sau khi họa sĩ Lê Thiết Cương giã từ dương gian. “Tiếng chợ” chia
thành hai phần, “Mùi Bếp” và “Nếp Phố”. 27 tản văn trong “Tiếng chợ” khơi dậy
những nét đẹp nhẹ nhàng lẩn khuất theo thời gian, từ nhà ra phố, từ xưa đến
nay.
“Tiếng chợ”
kể nhiều chuyện ẩm thực bếp núc, nhưng rộng hơn thế là khắc họa nên một họa sĩ Lê
Thiết Cương dành nhiều tâm sức để tỉ mỉ quan sát, ngẫm ngợi những điều ông cho
là đẹp, mà không có chút gì bận tâm điều đó có xứng đáng không, có lãng phí
không. Ông bày tỏ: “Chuyện bếp cũng là chuyện nhà, chuyện người chứ đâu chỉ
chuyện ăn chuyện uống. Phòng khách, phòng ngủ làm gì có thần, chỉ có bếp mới có
thần bếp thôi”.
Đọc “Tiếng
chợ”, có thể là thanh âm đồng đại, của một khu chợ cũ Hà Nội, một ngõ nhỏ bị thời
gian bỏ quên, một căn bếp ấm thơm mùi phố. Đọc “Tiếng chợ”, cũng có thể là âm
vang lịch đại, của một vùng đất kiêu hãnh từng mang danh Thăng Long- Kẻ Chợ “thứ
nhất Kinh Kỳ”. Đọc “Tiếng chợ”, bắt gặp Hà Nội hôm nay và nghe thấy Hà Nội hôm
qua, như cách con người tân kỳ bỗng dưng trùng căn cốt của mình trong nếp cũ.
Đọc “Tiếng
chợ” chợt hiểu một họa sĩ Lê Thiết Cương lắm phen thảng thốt: “Những năm từ
1979 - 1992, nhà tôi ở trong một khu tập thể của Bộ Văn hóa. Khu này dành cho
các hộ độc thân, chủ yếu là các nghệ sĩ, nhạc công dàn nhạc giao hưởng, diễn
viên múa, họa sĩ của bảo tàng mỹ thuật…
Tòa chung cư này bốn tầng, mỗi tầng mười phòng, mỗi phòng ba người ở. ba
ông độc thân ở chung một phòng… Không có bếp… Và cái hành lang dài buộc trở
thành một cái bếp to, gồm 30 cái bếp nhỏ của 30 ông nghệ sĩ độc thân. Tôi mãi
không quên được hình ảnh đó. Lạ nhưng buồn tuổi quá. Giờ thổi cơm, cái bếp to bỗng
trở nên chật chội, đông mà vẫn hiu quạnh. 30 nỗi quạnh hiu trong một cái hành
lang tối và chật.
Ngày nào
cũng như ngày nào, cứ độ năm, sáu giờ chiều là mười cánh cửa buồng từ từ mở ra.
30 người đàn ông, mỗi người bê ra hành lang một cái bếp dầu, 30 que diêm cùng
đánh lên, 30 rá gạo cùng vo, 39 nồi cơm sôi, 30 bìa đậu rán, 30 đĩa rau luộc,
30 con dao, 30 quả ớt, 39 con tôm, 30 bát cơm, 30 đôi đũa, 30 cái quạt nan phe
phẩy, 30 mùa thu, 30 cơn mưa… cái hành lang hẹp, dài hun hút, ủ ê trong ánh đèn
vàng tù mù yếu ớt. Mười ba năm với mấy nghìn buổi chiều tôi nhìn cảnh những
“gia đình một người” như vậy. Nói vậy chứ một người thì gọi là gia đình sao được.”
Với một
nhân vật duy mỹ như họa sĩ Lê Thiết Cương, viết lách là cơ hội chắt chiu cảm
xúc lắng đọng. Ông nhớ mùi bánh quế mẹ mang cho khi ông phải về quê nội sơ tán,
khoảng thời gian Hà Nội thường bị đánh bom: “Mẹ là bánh quế, mùi thơm của mẹ là
mùi bánh quế… hình như chiếc bánh quế của năm mươi năm trước có mùi vị gì đó
khang khác, khó mà đặt tên. Mùi vị của đói khát? Của đạn bom? Mùi vị của xa
cách, của nước mắt?”.
Mặt khác,
ông vân vi trước sự kết hợp độc đáo giữa thực phẩm và gia vị: “Tôi chả biết nói sao, tôi ngờ rằng, sống giản
tiện thì dễ sống, nhưng… Mắm tép mà ăn khế ngọt thì nuốt sao nổi. Chưa kể có
nhà còn thay bằng dứa thì miễn bàn. Vẫn chuyện tiếp về khế và mắm tép. Khế để
ăn mắm tép thì buộc phải thái sao (thái ngang), khế để rang tép cũng vậy. Nhưng
khế để nấu canh cá thì lại bổ dọc. Thái cắt gọt tỉa sao cho đúng tùy từng món,
cho dù đó chỉ là gia vị nhưng với người biết ăn lại rất quan trọng. Giả sử bát
canh cá, cho dù đủ độ chua của khế, nhưng nhìn miếng khế thái sao sẽ không vừa
mắt. Gia vị của món mắm tép còn có chuối xanh, hành củ chẻ, gừng thái chỉ. Cũng
là gừng nhưng bát nước chấm ốc luộc hoặc món canh rau cải cá rô, thì gừng lại đập
dập. Hạt tiêu xay dùng cho nhiều món nhưng riêng giò thủ (giò xào) thì phải là
hạt tiêu giã dối”.
Trong “Tiếng
chợ”, họa sĩ Lê Thiết Cương hé lộ ông có dạo cứ lặng lẽ đi theo chị bán rong, cắp
bên hông một thúng những bánh tro, bánh gai, bánh nếp. Chả phải muốn mua gì, muốn
nhìn gì, chỉ để nghe tiếng bước chân. Những “bàn chân âm thầm nói” và tưởng tượng
về một bài ca đường phố của những tiếng chân, tiếng rao, tiếng chào mời và cũng
đôi khi chỉ để thỏa cơn thèm nghe những câu nói đã lâu quá không còn nghe thấy
đến mức tưởng chừng chúng đã biến mất, dù đó chỉ là những câu đại loại như “mít
cành la, na cành bổng,” “ngày tư ngày Tết”, “bụng cao dạ dốc,” “thớt cao dao bầu”...
Và nhờ những
khoảnh khắc ấy, họa sĩ Lê Thiết Cương nhận ra: “Tiếng quê là tiếng Việt, nó nhiều
hình ảnh, nhiều thành ngữ. Tiếng Việt ở đô thị hôm nay nhạt. Một bác mời chào
còn lạng nhộng, mua nốt giúp chị thay vì nói “bán rẻ”, chị nói “ăn miếng đầu hầu
miếng cuối”.
“Tiếng chợ”
bộc lộ lối sống của họa sĩ Lê Thiết Cương, thích những thứ thuận theo tự nhiên,
thuận theo điều mình hứng thú, nặng tình cảm, dù có ngắn ngủi cũng không hề gì.
Ông kể chuyện một cô bạn ở nước ngoài về, được ông mời gói cốm mua ở hàng rong,
cô thấy ngon, vài hôm sau nhờ mua đem đi biếu. Ông nói nhẹ không rằng chẳng dễ
mua, vì cái ngon của cốm, cái hay của Hà Nội, bởi nó có những gánh hàng rong
như vậy “không có restaurant nào chuyên bán cốm. Mà đã gọi là quà, ăn quà tức
là ăn chơi chơi, tiện gặp thì ăn, ngẫu nhiên mới thú, ăn quà cần gì đúng giờ,
làm gì có bữa”.
NNMT