Thế giới “Trong lòng hồ thủy điện” ngỡ như
rất giới hạn mà lại vô hạn. Bởi vì nó bao hàm cả thế giới tự nhiên và thế giới
xã hội, cả sự ở đây và bây giờ của cái đương đại. Nói cách khác: Toàn bộ con
người Vũ Toàn và thơ của ông dường được bộc lộ hết chiều kích của sự gửi gắm lẫn
tâm trạng từ lát cắt trong hồ thủy điện.
THƠ CỦA NGƯỜI LẤY BÁO NUÔI VĂN
ĐẶNG HUY GIANG
Ê-ren-bua là nhà báo, nhà văn của nước Nga
Xô viết. Ông là tác giả nổi tiếng qua những
tác phẩm: “Cầu nguyện cho nước Nga”, “Pa-ri sụp đổ”, “Lòng yêu nước”...Ông có
quan niệm rất sâu sắc về quan hệ giữa nghề báo và nghề văn. Sinh thời, ông luôn “lấy báo để nuôi văn”. Bởi vì theo ông,
báo là nghề đi nhiều, tiếp xúc nhiều với nhiều mặt của cuộc đời. Và chính vì đi
nhiều mà người làm báo có điều kiện nạp thêm cảm xúc, nạp thêm vốn sống, nạp
thêm trải nghiệm...là những thứ mà nhà văn rất cần khi viết văn.
Ở ta, nhìn từ góc độ nghề, Vũ Toàn là một
trường hợp như thế! Nhờ say mê với nghề báo, Vũ Toàn có những bài thơ rất cập
nhật, rất thời sự, mang dấu ấn cá nhân và dấu ấn thời cuộc, sau những bài phóng
sự nổi tiếng của anh. Ba bài thơ: “Bà mẹ Quơn Long”, “Thơ viết ở trại tâm thần
Tân Kỳ” và “Ma túy” là ba minh chứng cụ thể. Trong đó, “Bà mẹ Quơn Long” có “một
chồng, ba con là liệt sĩ” và mẹ cũng là người quản trang” luôn “thương từng
ngôi mồ bằng nỗi nhớ thương chung”; “Thơ viết ở trại tâm thần Tân Kỳ” viết về
những người lính do di chứng chiến tranh mà trong đầu họ còn bao mảnh đạn, rồi
cũng vì thế mà mắc chứng tâm thần đến nỗi: “Họ viết bằng cán thìa múc canh/ Bằng
chiếc đũa vô tình giấu được/ Hàng chữ vạch trên tường nắn nót:/ Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Tiến lên! Xung phong!” và tác giả chỉ còn biết nhìn “họ nói, họ cười, tôi hóa
đá lặng câm”...
Còn “Ma túy” đích thực là một “phóng sự
thơ” được tác giả viết năm 1992 ở “thủ phủ ma túy” Kì Sơn:
Năm chín hai, ba ngàn héc ta
Mười sáu xã Kì Sơn trồng thuốc phiện
Cứ mỗi năm bình quân 4 tấn
Lẩn về xuôi rồi ẩn ở đâu?
Người trồng thuốc và người buôn thuốc
Nhiều hơn người cấy lúa, trồng rau
Mường Lống nhô lên cái rốn vùng cao
Kì Sơn là “thủ phủ”
Thuốc phiện tàng hình mọi nơi, mọi chỗ
Đồng hành như gió độc thổi về xuôi.
Cách
nay đã một phần tư thế kỷ, “Ma túy” đã đoạt giải ba trong cuộc thi thơ kéo dài hai năm từ 1998 đến 2000 do Tuần báo
Văn Nghệ tổ chức.
Sau những “Chín mùa trăng”, “Tự cháy”, “Nhớ
cỏ”, “Sông mặn”, mới đây, Vũ Toàn tiếp tục ra mắt độc giả một tập thơ mới mang
tên: “Trong lòng hồ thủy điện”. Chắc hẳn phải bằng lòng với đứa con tinh thần
thứ 5 của mình lắm, nên “Trong lòng hồ thủy điện” được in lần thứ nhất vào cuối
năm 2023 và tái bản sau đó vào quý 1 năm 2025.
Thế giới “Trong lòng hồ thủy điện” ngỡ như
rất giới hạn mà lại vô hạn. Bởi vì nó bao hàm cả thế giới tự nhiên và thế giới
xã hội, cả sự ở đây và bây giờ của cái đương đại. Nói cách khác: Toàn bộ con
người Vũ Toàn và thơ của ông dường được bộc lộ hết chiều kích của sự gửi gắm lẫn
tâm trạng từ lát cắt trong hồ thủy điện.
Đó là sự buồn bã đến tận cùng khi môi trường
bị tàn phá, khi “đứng nhìn cái chết của rừng cây” trong “Trên đỉnh pơmu”, khi
chia sẻ với “oan hồn bay theo hình cây đã chết” trong “Đêm ngủ bên suối Nậm Típ”,
khi thấm nỗi đau và nhận ra “giọt nước mắt của rừng róc rách chảy đầy sông”
trong “Rừng”. Và viết về nỗi đau mất mát của rừng, ngỡ ít người có thể viết hay
đến xé lòng như Vũ Toàn: “Ai chít khăn tang cho những cánh rừng/ Khi gỗ lậu từ
cánh rừng - máu chảy?”
Những câu thơ ấn tượng đầy trải nghiệm ở
nghĩa chấp nhận, ở nghĩa bươn chải để vượt mình trong ý nghĩa của tồn tại, trong
thách thức của quy luật, cũng không thiếu:
Dưới gầm trời
Rừng phải cố mà xanh
Dưới dông rừng
Hồ phải cố mà trong
(“Trong lòng hồ thủy điện”)
Trăm năm trước chẳng hề vơi
Thời gian thẫm lại cả nơi cát mòn
(“Quê bạn”)
Tôi làm người bình thường
Mặc cho trời cao thấp
Mặc đời quay chóng mặt
Đất vẫn màu cỏ lên
(“Tôi làm người bình thường”)
Tấn trò đời vẫn diễn
Như chưa từng đứng yên
Ta đi làm trái chín
Hương thơm về cõi riêng.
(“Trái chín”)...
Tôi coi “Giếng” là một phát hiện trong thơ
của Vũ Toàn:
Giếng như là suối mực
Viết sử trang đất này
Giếng ngỡ là hốc đất
Ngước nhìn thế gian đi.
Tôi
coi “Người lính về từ Gạc Ma” là một phát hiện khác về đảo chìm:
Thì Gạc Ma là đảo chìm trong ngực
Anh mang theo đằng đẵng tháng ngày.
Tôi coi “Ngày 30 tháng 4” là một cách nói
hay về chiến tranh, về cái ác liệt của chiến tranh mà vẫn bình tĩnh, bình thản
như không:
Năm 18 tuổi tôi đi lính
Hồn như mây trắng nói làm chi
Không hiểu sao ngày 30 tháng 4 còn sống
Ba lô. Khói súng. Lính binh nhì.
Tôi
coi “Hư danh” là tứ thơ có độ ngẫm và độ cảm lớn:
Tình yêu mê hoặc tình yêu
Hư danh mê hoặc cánh diều giấy bay
Tiếng chim mê hoặc rừng cây
Hư danh mê hoặc bóng mấy trên trời.
Thơ Vũ Toàn giản dị mà sâu sắc, không cầu kỳ mà hàm chứa, bao quát. Đó là cái đáng quý trong thơ và cũng là cái đích mà thơ hiện đại cần hướng tới.