Chuyện kể nhân ngày 21/6 của nhà thơ- nhà báo Nguyễn Tiến Thanh: Đọc xong “Trò
chuyện hoa thủy tiên…”, có hơi chút choáng váng, gã bảo Hạnh: “Em nói với ông
Thiệp, phải chấp nhận để anh biên tập mới đăng được”. Hạnh nói: “Ông ấy ủy quyền
cho Ngày Nay được sử dụng nó, theo cách nào cũng được”.
LÀM BÁO VĂN CHƯƠNG “TƠI BỜI” HƠN LÀM BÁO THỊ TRƯỜNG.
NGUYỄN TIẾN
THANH
Năm 2004,
gã rong chơi trực tiếp “cầm” nội dung tờ Ngày Nay- tờ tạp chí chuyên về văn
hoá, văn học - nghệ thuật ra hàng tuần. Khi đó, gã tự hào chính là người sáng lập
ra nó trước đó một năm và điều hành từ A-Z: tổ chức bài vở, thiết kế trình bày,
in ấn, phát hành.
Chuyện này
rất ít người biết, trừ những người trong cuộc và gã cũng chưa bao giờ kể. Làng
báo lúc ấy chỉ biết gã làm một số tờ báo “bán chạy” được định danh là báo thị
trường. Họ không biết, hoặc đã quên trước khi làm báo, gã từng làm thơ.
Năm đó gã
36 tuổi, chuyển từ phó tổng biên tập một tờ tuần báo thuộc bộ sang làm phó tổng
biên tập một tờ tuần báo thuộc Hội được gần 3 năm. Không giống ở báo cũ, sang
nơi làm mới, suốt 3 năm gã không được làm gì theo ý tưởng riêng. Còn để làm
tròn vai một phó tổng biên tập phụ trách nội dung tuần báo, gã thấy mình quá thừa
thời gian nên âm thầm mở ra một sân chơi mới, cho chính mình và cho giới văn
nghệ, hoàn toàn không đứng tên.
Thậm chí để
đề án thành lập tờ Ngày Nay được cấp phép và cũng để “nuôi” ấn phẩm này, gã đã
phải nhận lời tổ chức nội dung trong 10 số đầu của một tờ tạp chí chuyên về thị
trường, tiêu dùng do một “soái” Việt lừng danh Đông Âu đầu tư. Thời đó như một
ký ức vất vả và cũng đẹp đẽ của một gã thực sự chỉ biết sống bằng nghề báo.
Nhưng đó là một câu chuyện dài, có lẽ khi có thời gian gã sẽ kể kỹ bằng một cuốn
sách… sẽ viết trong tương lai.
Toà soạn
Ngày Nay chỉ có 5 người, nằm ở một con phố khi đó khá heo hút của thành phố.
Tuy nhiên, sau một năm ra đời, lượng tác giả cộng tác càng ngày càng đông, lượng
bài viết càng ngày càng phong phú. Những người viết nhiều nhất, hầu như số nào
cũng có bài, theo gã nhớ là Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Vĩnh
Nguyên. Trần Mạnh Hảo lúc đó đã lừng danh, Nguyễn Vĩnh Nguyên còn là gương mặt
trẻ và Nguyễn Hoàng Đức thì hầu như chưa ai biết. Họ là người viết, gã là người
biên tập và duyệt đăng, nhưng trước hết gã là người đọc. Toàn bộ là bài lai cảo,
toà soạn chỉ biết tác giả qua cái tên và bài viết. Gã biết họ qua tác phẩm. Còn
họ, họ không biết gã , nhưng họ biết Ngày Nay - nơi in đậm dấu vết tinh thần của
gã và của họ, như vậy là đủ.
Bây giờ
nhìn lại mới thấy, nước ta mấy thập kỷ nay quá thiếu “ sân chơi” cho văn học.
Khi đó, Nguyễn Vĩnh Nguyên viết quá…khoẻ - gây quá tải các trang văn nghệ của
báo chí- vì vậy Ngày Nay là nơi anh có thể đều đặn “ đẻ trứng”. Còn Trần Mạnh Hảo
và Nguyễn Hoàng Đức thì toàn bài “búa bổ” nên nếu không gửi Ngày Nay đăng, chắc
cũng khó có tờ nào “cân” được hai ông .
Hôm đó, Hạnh,
một biên tập viên kiêm phóng viên trẻ nhất, nhưng cũng viết hay nhất Ngày Nay
đưa gã một bản đánh máy mà gã cảm nhận khá lỡ cỡ về dung lượng: quá dài để in
báo chí, nhưng quá ngắn để in sách. Đó là một tiểu luận có tiêu đề khá ám ảnh:
“Trò chuyện với hoa thuỷ tiên và sự nhầm lẫn của nhà văn”, tác giả là Nguyễn
Huy Thiệp. Ông Thiệp khi đó cũng có cộng tác với Ngày Nay. Thậm chí Ngày Nay là
tờ đầu tiên in dài kỳ tiểu thuyết “Tuổi 20 yêu dấu”, có lẽ cũng là cuốn tiểu
thuyết duy nhất của “văn hào truyện ngắn” Nguyễn Huy Thiệp.
Đọc xong “Trò
chuyện hoa thủy tiên…”, có hơi chút choáng váng, gã bảo Hạnh: “Em nói với ông
Thiệp, phải chấp nhận để anh biên tập mới đăng được”. Hạnh nói: “Ông ấy ủy quyền
cho Ngày Nay được sử dụng nó, theo cách nào cũng được”.
Thế là gã
quyết định bỏ ra một buổi chiều, biên tập lại, cắt bỏ những đoạn quá gai góc
trong tiểu luận, và chia ra thành 2 kỳ. Duy có một đoạn- khiến sau này cả Ngày
Nay lẫn ông Thiệp “tơi bời” vì nó- thì gã tiếc. Cắt đoạn ấy đi coi như cắt cả
linh hồn của tiểu luận. Gã chỉ biên tập một vài từ ngữ quá nặng nề, nhưng hình
hài còn lại của đoạn đó cũng khiến mọi người hình như không chịu nổi.
Đó là đoạn
ông Thiệp viết về các nhà văn thời ông sống - trong đó có chính ông - bằng một
giọng điệu vừa mỉa mai, vừa tuyệt vọng, vừa… thấu hiểu đến đau lòng: “Đa số đều
chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… "vô
học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là
những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ
du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài
năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí
nhớ người đời, còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả. Giai thoại có một nhà thơ
nói về tình cảnh thơ ở trong bài thơ sau đây (tôi đã đưa chuyện này vào trong
tiểu thuyết của tôi vì nó quá hay) khá tiêu biểu cho thực tế đó: "Vợ tôi nửa
tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại
bảo: Dí l… vào thơ!", tôi cũng không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với
thơ nhưng quả thực trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là
nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với
sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa”
Công bằng
mà nói, nếu chỉ đọc những đoạn văn bị cắt rời khỏi tổng thể của một tiểu luận
viết theo mạch văn-triết- mỹ học và hiểu theo nghĩa đen thông thường như một
bài báo thông thường thì… phẫn nộ trào dâng là bình thường. Còn gã, khi quyết định
đăng tiểu luận này, gã cũng hơi ảo tưởng khi nghĩ người viết là một nhà văn, thể
loại bài viết là một tiểu luận và đối tượng của của bài viết - tệp độc giả tinh
hoa- chính là nhà văn. Họ sẽ có cách tiếp cận văn bản khác với bạn đọc thông
thường, nhất là khi văn bản đó cũng khác với bài báo thông thường.
Gã được
đào tạo chính quy về nghiên cứu lý thuyết văn chương hiện đại, thậm chí có thời
gian đứng trên bục giảng đại học nên gã hiểu rằng, đoạn văn trên - khi đọc với
con mắt văn học và tinh thần tự trào đặc trưng của Nguyễn Huy Thiệp và không bị
trích dẫn cắt rời ra khỏi văn cảnh cũng như tổng thể nội dung của tiểu luận -
không phải là một sự phỉ báng thơ ca hay thi sĩ, mà là một tấm gương, nơi tác
giả dùng cái nhìn “tàn nhẫn” để soi chiếu chính cái cao quý, thiêng liêng mà
văn chương thường gán cho thơ. Cách ông nói về “thơ” ở đây là cách mà một người
hiểu sâu bản chất của sự “hư cấu” nghệ thuật – trong đó cái rởm, cái vô dụng,
cái “vớ vẩn” lại là phần lớn thực tế, còn cái đẹp thực sự thì hiếm hoi, mong
manh và nằm lẫn trong đống hỗn độn ấy.
Về mặt lý
thuyết văn học, đoạn văn này đặt trong dòng mạch hậu hiện đại – nơi mọi giá trị
từng được xem là thiêng liêng (thơ, nhà thơ, nghệ thuật) đều bị “giải cấu trúc”
qua cái nhìn mỉa mai, hoài nghi. Nguyễn Huy Thiệp không chối bỏ thơ, mà đang
“giải thiêng” nó, diễn trò “vạch mặt” nó – để trong chính sự trần trụi ấy, một
thứ thi ca khác có thể được tái sinh. Thơ không còn là biểu tượng của thiêng
liêng, mà trở thành tấm gương để người đọc tự vấn: tại sao ta từng tin vào thơ?
Tại sao ta từng nghĩ một bài thơ có thể cứu rỗi linh hồn?
Cặp câu
thơ được trích trong đoạn văn như một “giai thoại”, thực chất là một kiểu giễu
nhại thi ca bằng chính ngôn ngữ phản-thi-ca, để vạch ra sự khủng hoảng niềm tin
vào cảm hứng và chức năng của thơ trong một thời đại thực dụng, nơi thi sĩ trở
nên lạc lõng, bị xem như những kẻ “chập cheng”. Nhưng sâu hơn, đó là tiếng thở
dài cay đắng của một kẻ yêu thơ nhưng buộc phải nói sự thật về sự thất thế của
thơ: thơ không còn là nơi trú ẩn tinh thần hay hình thức cứu rỗi, mà trở thành
“vật thể thừa thãi” – chỉ còn tồn tại như ẩn dụ của sự dở dang, không ai biết
phải dùng nó vào việc gì.
Đọc Nguyễn
Huy Thiệp, gã đồ rằng chính ông là người ấp ủ giấc mộng trở thành nhà thơ nhất.
Bằng chứng là những truyện ngắn hay nhất của ông đều chen lẫn hoặc kết thúc bằng
những khúc ca - đúng hơn là những thi khúc- mà ông viết như trút cả linh hồn
vào đó. Sự tự trào- được đẩy lên tới tận cùng - của Nguyễn Huy Thiệp trong tiểu
luận này phải chăng xuất phát từ ẩn ức của ông, từ giấc mộng thi ca bất thành của
ông?
Chính cách
tiếp cận theo góc nhìn của những độc giả thông thường đối với một tiểu luận -thực
chất là một trường đoạn trữ tình - triết- mỹ học xuất phát từ những chiêm nghiệm
cá nhân mang tính “gây sự” của một nhà văn tài năng - đã gây ra cơn bão thịnh nộ
của một bộ phận giới văn chương. Cơn bão ấy được sự “thổi gió” của của một vài
tờ báo - vốn trầm lắng, thiếu đề tài hút khách- đã giáng thịnh nộ xuống Ngày
Nay và Nguyễn Huy Thiệp không thương tiếc.
Một đoạn
văn tự trào, được viết như lời độc thoại giữa bóng tối của người cầm bút - giống
như một phần thân thể của bài viết - bị cắt rời ra, bị hiểu như lời thóa mạ. Giọng
nói rền vang nhất trong việc lên án Nguyễn Huy Thiệp và Ngày Nay lại chính là
Trần Mạnh Hảo, với bút lực như sóng biển, với trí tuệ thông minh đến mức… thần
thông có thể uốn lại các khái niệm theo góc nhìn của mình. Rồi hàng loạt các “cổ
thụ” khác của giới văn chương cũng lên tiếng. Hội thì chính thức phát văn bản
đòi các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí, các cơ quan chức năng đình bản Ngày
Nay và xử lý Nguyễn Huy Thiệp (trong khi ông Thiệp chính là hội viên của Hội).
Một phần
giới văn nghệ khi ấy như lên đồng trong cơn mê sảng rủa sả Nguyễn Huy Thiệp. Một
nhà văn tên tuổi ở Quảng Ninh viết bài đăng kín hai trang A3 báo Văn Nghệ tuyên
bố là tuy chưa đọc “Trò chuyện với hoa thuỷ tiên…” và sẽ không đọc nó, nhưng
cũng đủ biết Nguyễn Huy Thiệp có tâm hồn đen tối và tờ báo đăng tiểu luận này
phải bị đóng cửa. Ngày Nay đăng lại một vài ý kiến của các tác giả khác, điềm
tĩnh hơn, tiếp cận văn bản với góc nhìn văn chương hơn thì ngay lập tức bị quy
kết là “tập hợp lực lượng” để phản công, để bảo vệ những sai trái của Nguyễn
Huy Thiệp.
Trận đòn hội
đồng đó (may mà hồi đó chưa có mạng xã hội) đã khiến một văn tài rất “lỳ” như
Nguyễn Huy Thiệp cũng tưởng chừng không chịu nổi. Ông Thiệp nói với Hạnh, nhắn
với gã rằng ông sẽ viết đơn xin ra khỏi Hội Nhà văn để bảo vệ Ngày Nay. Hoá ra,
nhà văn- dù vĩ đại đến đâu cũng có lúc ngây thơ đến mức trẻ con. Gã nhắn với
ông Thiệp rằng, danh hiệu Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chính là kim bài trong
việc ông bảo vệ Ngày Nay và bản thân. Ông không thể buông bỏ kim bài đó.
Cũng may,
người lãnh đạo tư tưởng - văn hoá thời đó là một nhà thơ lớn. Ông cũng từng đứng
đầu Hội nhà văn Việt Nam vào thời điểm văn nghệ Việt Nam lâm vào tình trạng “đốt
đuốc đi tìm người cầm cờ”. Ông hiểu tinh thần phản thiêng của tiểu luận, hiểu
tâm thế hậu hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp, hiểu sự kiêu hãnh, sự tự ái theo kiểu
trẻ con được bố mẹ- thể chế và người đọc - nuông chiều của một bộ phận giới văn
nghệ. Bằng sự điềm tĩnh của một người từng đứng giữa cơn bão văn chương, ông đã
khép lại mọi chuyện như khép lại một bài thơ đầy ẩn dụ – bằng tinh thần nhân
văn. Ngày Nay không bị đình bản, Nguyễn Huy Thiệp không bị xử lý.
Nhiều năm
sau, mọi cơn bão qua đi, những người trong cuộc bình tâm trở lại. “Trò chuyện với
hoa thuỷ tiên…” được in thành sách và nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội.
Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Huy Thiệp thành đôi tri kỷ văn chương thân thiết. Khi
ông Thiệp mất, Hội Nhà văn Việt Nam, các nhà văn danh tiếng nhất ca ngợi ông bằng
những lời ai điếu hay nhất, xúc động lòng người nhất. Tiểu luận từng bị xem là
xúc phạm thơ ca – lại trở thành biểu tượng về niềm đau của một kẻ yêu thơ đến tận
cùng nhưng không còn tin vào khả năng cứu rỗi của thơ.
Có lẽ, ông
Thiệp đã gieo trồng được một loài hoa thủy tiên kỳ lạ nhất trên đời, bởi nó gây
mê lúc vừa xuất hiện và chỉ tỏa hương sau rất nhiều năm bị xa lánh và ghét bỏ.
Còn gã
rong chơi đã cùng ông Thiệp trụ lại trong tâm bão, nhưng khi cơn bão qua đi thì
gã cảm nhận được sự tơi bời khi làm báo văn nghệ. Cuộc rong chơi nào cũng có
lúc chấm dứt, nên cùng với nhiều lý do khác, gã quyết định rời bỏ Ngày Nay, để
đứa con tinh thần ấy có một đời sống khác với những người có thể nuôi nấng,
chăm sóc và dẫn dắt nó đi theo một con đường khác với lựa chọn của gã.
Gã quay về
với báo bình dân và cả tạp chí đắt tiền, với trào lưu của giới trẻ và xu hướng
thời trang, với báo pháp luật và những ấn phẩm về hôn nhân gia đình. Dẫu sao gã
cũng là nhà báo chuyên nghiệp và nên coi việc mưu sinh bằng chữ nghĩa là một
cách làm báo lương thiện nhất, tận hiến nhất. Cho đến tận 2010, khi gã được bổ
nhiệm Tổng Biên tập tờ báo gã đang công tác, có đủ điều kiện để thực hiện những
khát vọng nghề nghiệp, gã mới bỏ hết những tơ vương bên ngoài, chuyên tâm làm tờ
báo của gã và các đồng sự.
Giấc mộng
tạo sân chơi cho giới văn nghệ tan vỡ, tưởng rằng sẽ cạch đến già, ngờ đâu nghiệp
duyên chưa hết, đời làm báo của gã còn 2 lần nữa dan díu với báo văn chương.
Tuy không đến nỗi tơi bời hoa lá như lần trước, xong cuối cùng vẫn đành không
kèn không trống rút lui. Gã sẽ kể lại những chuyện này trong một thiên hồi ức
khác.
Nhớ về kỷ
niệm “Trò chuyện với hoa thuỷ tiên…”, gã quyết định học người đi trước, trò
chuyện với… thi ca bằng một tiểu luận dày 500 trang, dự kiến sẽ xuất bản trong
tháng 8/2025. Tiểu luận có tiêu đề “Những câu thơ không cần cứu ai, nhưng cứu
người viết”.
“Những câu
thơ không cần cứu ai – nhưng cứu người viết” là một đoạn trò chuyện kéo dài –
không chỉ với thơ, mà với cả đời sống. Nó được viết ra không để chứng minh điều
gì, càng không phải để bào chữa cho thơ ca – mà chỉ để giữ lại một vùng lặng,
nơi những người từng sống bằng chữ có thể gặp nhau lần nữa.
Với gã, đó
là một món nợ cần thanh toán với chính mình. Sau hơn hai thập kỷ, khi đã rửa
tay gác kiếm, chuyển từ nghề báo sang nghề sách, gã quyết định giải mật cho những
năm tháng âm thầm làm báo văn chương chính là để giữ lại những ký ức. Những ký ức
ấy không rời gã. Và nó trở lại – như một đoản khúc chưa hát hết – trong chính tập
tiểu luận này.
Cuộc sống
vẫn tiếp tục. Nhưng có một điều gì đó trong gã – dường như đã chậm lại. Trong mấy
chục năm làm báo, gã hầu như không còn viết thơ. Nhưng thơ không rời gã . Nó nằm
trong giọng nói, trong cách gã biên tập một bài báo, trong cách gã chọn một
nhan đề, hay chỉ là cách gã im lặng giữa một cuộc họp.
Nhiều năm
sau, gã ngồi lại. Viết. Vừa để “trở lại” với thơ, vừa để trò chuyện với nó.
Không còn nghĩ thơ là thiêng liêng, nhưng cũng không coi nó là vô ích. Gã viết
về những câu thơ không được cứu, không ai nhớ, không ai in. Gã viết về những
người viết không chờ ai đọc. Gã viết về thơ – như một phần cơ thể đã mất. Đau.
Nhưng vẫn ám ảnh như bóng hình một tình yêu cũ.
“Những câu
thơ không cần cứu ai, nhưng cứu người viết” ra đời từ những đoạn ghi chép như
thế. Nó không lý luận. Cũng không lý sự. Phi thể loại. Nó là một thứ văn bản
lai – giữa ký ức và hiện tại, giữa thơ và phê bình, giữa tự sự và chiêm nghiệm.
Mỗi khúc trong sách là một đoạn đối thoại – đôi khi không có người đáp, đôi khi
chỉ là lời độc thoại của một kẻ đang ngồi lại với chính mình – sau nhiều năm
làm báo, sống, và… không viết thơ.
Gã không
mong cuốn sách này sẽ cứu được ai. Chỉ hy vọng – nó giữ lại được một cái gì đó
cho những người còn tin – rằng giữa thời đại thực dụng, hoài nghi và phi lý
này, vẫn có những người viết ra một câu thơ – không để được khen, không để in,
không để nổi tiếng – mà chỉ để không chết thêm một lần nữa.
Gã viết nó như cách một người làm báo năm nào – lặng lẽ trở lại, đặt tay lên bờ vai của một bản thảo đã nằm im hơn hai mươi năm, và khẽ nói: Chúng ta vẫn chưa kết thúc cuộc trò chuyện ấy đâu. Hẹn bạn đọc – trong những mùa hoa thủy tiên tới.