Tròn 30 năm về miền mây trắng, nhà văn Nguyễn Văn Hầu tái ngộ với độc giả bằng bộ sách “Văn học Miền Nam Lục tỉnh” do NXB Trẻ ấn hành. Ngoài gia tài văn chương, Nguyễn Văn Hầu còn được xem như một người nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt Nam, nổi tiếng với những nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ.
Hành trình “Lục tỉnh giáp vòng”
Nguyễn Văn
Hầu sinh năm 1922, tại xã Bình Phước Xuân, trên Cù Lao Giêng, thuộc huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Từ nhỏ, ông được học
Quốc ngữ, Pháp ngữ và cả chữ Hán. Ông bắt đầu dạy học vào năm 1952, rồi viết
sách, viết báo và làm Chủ bút Nguyệt san Đuốc Từ Bi.
Từ năm
1977 biết mình có bệnh nhưng ông vẫn cố gắng hoàn thành hai bộ bản thảo văn học:
300 năm văn học dân gian Lục tỉnh và Văn học miền Nam Lục tỉnh. Ông thong dong
miền mây trắng vào tháng 3, năm 1995 tại quê nhà. Ngoài hai bộ sách cuối cùng
trên, ông để lại một gia tài văn chương gồm thơ, ký, và các nghiên cứu đồ sộ
như: "Thất Sơn mầu nhiệm"; "Nửa tháng trong miền Thất Sơn";
"Tiếng quyên"; "Bản ngã Người Việt"; "Việt Nam Tam
Giáo Sử Đại cương"; "Thuật viết văn"…
So với chiều
dài của lịch sử dân tộc nước Việt Nam ta thì Đàng Trong được gọi là vùng đất mới.
Đàng Trong là để chỉ miền Nam, và sau này dưới thời Pháp thuộc Đàng Trong được
gọi là Nam kỳ. Tuy là vùng đất mới nhưng ở đâu có con người đến khai phá lập
nghiệp thì hiển nhiên có sự phát triển của ngôn ngữ, văn chương. Bộ sách “Văn học
miền Nam Lục tỉnh” của tác giả Nguyễn Văn Hầu là một trong số hiếm hoi tác phẩm
thể hiện được một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển của văn học
miền Nam từ khi mở đất đến hết thời kỳ Pháp thuộc 1945.
Viết về
văn học, nhất là phần dân gian không thể ngồi nhà lật mở sách báo cũ ra chép mà
phải đi nhiều, học nhiều rồi phỏng vấn cho thật nhiều; còn phần Hán Nôm cũng gần
gần như vậy, người cầm viết không phải tìm trong thư viện mà có đủ được những
cái mình cần. Bởi vì các bổn văn Nôm, trừ Nguyễn Đình Chiểu với thơ Vân Tiên được
đem khắc ván từ bên Tàu hay bổn chụp ảnh in tận bên Tây, số còn lại cũng cùng
tác giả hoặc của các tác giả khác đều chỉ được chép tay hoặc là truyền miệng.
Đến các
tác phẩm viết bằng Hán văn thì việc khắc in hình như thế chỉ được dành cho các
nhà văn có nhiều bề thế, bởi vì những người thường khác, thì làm gì đủ sức mà
làm! Kiểm điểm lại, chúng ta chỉ thấy có Mạc Thiên Tích, Trịnh Hoài Đức, Phan
Thanh Giản và Nguyễn Thông mới có sách chữ Hán được xuất bản bằng cách in ra.
Phần các thi văn thi sĩ khác thì chỉ được phổ biến theo lối chép tay rồi mượn
mõ chuyền lao với nhau mà đọc. Sự thất thoát lớn lao đối với các sách này, ngày
nay chúng ta chỉ còn nghe biết được cái nhan đề thôi, là do sự phổ biến rất hạn
chế ấy.
Cho nên để
hoàn thành bộ sách này, với Nguyễn Văn Hầu là một hành trình nối dài của những
chuyến đi “Lục tỉnh giáp vòng”.
Vai trò
cần thiết của văn học trong lịch sử vùng đất
Bộ “Văn học
miền Nam Lục tỉnh” ban đầu gồm bốn cuốn. Cuốn một: "Miền Nam và Văn học
dân gian địa phương". Cuốn hai: "Văn học Hán Nôm thời khai mở và xây
dựng đất nước". Cuốn ba: "Văn học Hán thời kháng Pháp và thuộc
Pháp". Và cuốn tư: "Chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ từ 1865 đến
1945". Nhưng khi phát hành, NXB Trẻ đã tập hợp cuốn tư in vào chung với cuốn
3 thành tập 3, phần 6. Dẫu vậy, cuộc kiếm tìm tài liệu cho bộ sách này không dễ
dàng gì! Sinh thời, nhà văn Nguyễn Văn Hầu đã từng cảm thán: “Được tới đâu, hay
tới đó”.
Bộ sách
đem đến những tư liệu quý giá về văn học miền đất này trong giai đoạn từ thời
khai hoang mở cõi đến thời kháng Pháp. Mỗi giai đoạn được diễn giải chi tiết
trong từng tập sách, cho người đọc cái nhìn vừa cụ thể, vừa khái quát về tiến
trình lịch sử cũng như văn hóa văn học xứ Nam Kỳ Lục tỉnh.
Tập 1 -
“Miền Nam và văn học dân gian địa phương” nói về loại hình văn học dân gian của
thời kỳ mở cõi phương Nam. Giai đoạn mở cõi, con người phải lo chiến đấu với
thiên nhiên, khai hoang mở đất. Đất phương Nam là nơi mà "Dưới sông sấu lội,
trên bờ cọp um", những cư dân đầu tiên phải lo chống chọi với thiên nhiên
nên văn chương biểu thị cho đời sống tinh thần giai đoạn này chỉ là thể loại
truyền khẩu, ca dao, tục ngữ, câu đố và hò vè.
Vì Nam Kỳ
có sáu tỉnh, nên khi nói hay khi viết, người ta thường gọi chung là Lục tỉnh
Nam Kỳ hoặc Nam Kỳ Lục tỉnh. Có lẽ thấy danh xưng Lục tỉnh gọn ghẽ mà ý nghĩa
cùng đầy đủ để chỉ một địa danh rộng lớn, cho nên nhiều lúc người ta cắt bớt đi
tiếng Nam Kỳ mà gọi tắt là Lục tỉnh. Người Lục tỉnh, đất Lục tỉnh, hàng hóa sản
xuất từ Lục tỉnh. Tên gọi này tuy không chính thức được ghi lên bản đồ như Gia
Định Thành hay Nam Kì nhưng nó rất được phổ biến trong dân gian và rồi luồn sâu
vào ca dao nữa: Thầy cô nhỏ thó/ Lại có hường nhan/ Chưn mày lan con mắt lộ/
Đất Lục tỉnh này ai ngộ bằng cô!
Tập 2 -
“Văn học Hán Nôm thời khai nở và xây dựng đất mới” thể hiện giai đoạn sơ khai đến
phát triển của văn học Hán Nôm xứ Đàng Trong. Khi sự quản lý về mặt hành chính
của các chúa Nguyễn được định hình thì văn học Hán Nôm của xứ Đàng Trong cũng
ra đời và phát triển. Nổi bật trong văn học Hán Nôm thời kỳ đó có Mạc Thiên
Tích, Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt…
Chúng ta
có thể nhận định rằng văn học của người lưu dân bước đầu chỉ là bước mở đường.
Tùy sinh hoạt tinh thần mà người ta sáng tác những bài vè bình dân, những câu
ca dao, tục ngữ vừa vặn với mực hiểu biết thông dụng. Rồi cũng tùy nhu cầu thiết
thân mà người ta chép lấy những khúc ngâm, những bài vãn đoạn vè bằng chữ Nôm,
hoặc tiến bộ hơn, những bài thơ, câu thiệu, sách nói, sách thuốc cùng với những
đoạn Văn công gia lễ bằng chữ Hán.
Cho đến
khi tổ chức chính quyền được mở mang rộng rãi, dân cư được quy tụ đông nhiều,
thì nhu cầu mới cảm thấy cấp thiết hơn và do đó việc học, việc thi mới thấy cần.
Những tác phẩm Hán Nôm nói lên sự nhen nhúm lần hồi một cách cố gắng của văn học
thời kì này. Thêm vài cuộc thi được tổ chức (khoa Tân Hợi và Bính Thìn), đã xác
nhận rõ ràng hơn về sự có tiến triển của một nền văn học phôi thai tại “cõi
ngoài” mà thời ấy người ta coi nó là chỗ “biên thùy di vực”.
Riêng tập
3 là tập dồn của cuốn 3 và cuốn 4, chủ đề “Văn học Hán Nôm và văn học quốc ngữ
thời kháng Pháp và thuộc Pháp” bao gồm các tác phẩm văn chương thể hiện tinh thần
yêu nước, đấu tranh bất khuất của người Nam Bộ với thực dân Pháp. Đây là thời kỳ
sản sinh ra những nhà văn yêu nước với tài thơ văn xuất chúng với nhiều tác phẩm
bất hủ còn lưu lại cho hậu thế, các tên tuổi phải kể như: Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Quang Diêu... Những áng
thơ văn thể hiện lòng yêu nước, khí khái, trọng nghĩa khinh tài trong thời kỳ
này ở Nam kỳ đã trăm hoa đua nở làm nên một thời kỳ rạng rỡ cho văn chương nước
nhà.
Từ khi
thành Gia Định thất thủ rồi sau đó các đồn Kì Hòa, Cây Mai bị hạ, người dân đã
sớm ý thức trách nhiệm của mình, vội vã đứng lên chống giặc. Khắp cả các mặt trận,
nơi nào người ta cũng được như nghe thấy “trống nghĩa bảo an theo sấm rạp; cờ
thù công tử guộn mây qua”. Và từ ấy: “Súng giặc đất rền - Lòng dân trời tỏ”.
Trong hoàn cảnh bi thống đó của lịch sử, có biết bao thơ văn xuất hiện với hình
thức những bài vè, bài hịch, bài phú, bài tế, bài hát, bài thơ… hướng về với mục
tiêu bày tỏ nỗi uất hận vô biên hoặc hô hào, kêu giục hãy cùng nhau hy sinh vì
chánh nghĩa.
Trong số
các bài văn chương tranh đấu, hay nói cách khác là những vần thơ ái quốc đó, có
bài xuất phát từ giới học vấn khoa cử mà cũng có bài được làm do người dân chơn
chất quê mùa. Nhiều bài được nhắc tên tác giả mà có lắm bài hoàn toàn không rõ
chủ nó là ai. Nó không những được phổ biến một cách rộng rãi đương thời mà một
phần còn được lưu truyền mãi đến ngày nay. Những bài thơ ca ấy là những tiếng
lòng của người dân miền Nam thất quốc. Theo tình tự dân tộc, khi thì thổn thức
nức nở, khi thì gào thét lôi đình. Nghiên cứu cả hai mặt, văn học và lịch sử,
thứ văn chương đối kháng này đều thủ được một vai trò cần thiết.
Trọn bộ
sách quý này chính là chỉ dấu văn học của mảnh đất miền Nam từ thuở Đàng Trong
cho đến thời Lục tỉnh.
TỐNG PHƯỚC
BẢO – Văn Nghệ Công
An