Lê Xuân Đố yêu thơ, say thơ đến mức kỳ lạ, hầu hết bạn thơ văn đều xác nhận. Ông với rượu và bạn không thể tách rời. Mỗi lần cầm chén rượu hay vào cuộc bia ông đọc thơ khi như hét, lúc trầm lắng như đứt hơi và … khóc.
LÊ XUÂN
ĐỐ VÀ NGỌN LỬA ĐỜI
THƠ
PHẠM
ĐÌNH ÂN
Nhà thơ Lê
Xuân Đố sinh 1943, ở làng biển nghèo bên cửa sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình. Tuổi thiếu thời, ông được học trường Đào Duy Từ cấp 2, cấp 3.
Lớn lên ông được học trường Đại học Tổng hợp khoa ngữ văn Hà Nội. Tốt nghiệp đại
học, ông về làm việc Đài Tiếng nói Việt Nam, buổi phát thanh Tiếng Thơ danh giá
hồi bấy giờ. Sau ngày đất nước thống nhất, ông đưa vợ con từ quê Quảng Bình vào
đoàn tụ ở TP.HCM, ông tiếp tục làm chương trình thơ và sân khấu ở Đài Truyền
hình TP.HCM. Đến tuổi, ông nghỉ hưu tại thành phố nhộn nhịp nhất phương Nam.
Lê Xuân Đố
đã xuất bản năm tập thơ “Hồn nhiên” (NXB Văn nghệ TP.HCM 1988), “Ngọn nguồn” (NXB
Văn học 1999), “Giọng muối” (NXB Văn hóa Thông tin 2003) và “Chúc phúc lá xanh”
(NXB Hội nhà văn 2020). Ông có bài thơ “Thức”, như là chân dung Lê Xuân Đố đời
và thơ: “Quảng Bình nặng lòng tiên tổ/ Hà Thành thất thểu văn chương/ Sài Gòn
làm không kịp nhớ/ Trở mình thức mấy quê hương”.
Quảng
Bình nặng lòng tiên tổ.
Lê Xuân Đố
sinh ra ở làng biển nghèo, cha là ngư dân thứ thiệt: “Cha là ngư dân chọn biển
để ra đời/ Con cái sinh ra từ mùa sinh con nước … Bão biển ư/ Không ồn ào tuyên
ngôn máu lửa/ Sóng gió dữ dằn cũng mặt biển đấy thôi/ Sau bão là biển lặng yên
đẹp tựa gương trong/ Soi đầy khăn tang nước mắt”. Với ông, biển là cha bờ là mẹ
và ngược lại. Biển dữ dội và lặng yên sinh ra tính cách nghệ thuật thơ ông lửa
cháy và cả trữ tình.
Không sinh
ra ở biển, con của biển thì ông không thể có bài thơ “Bão”: Ngọn gió hai chiều
thổi gió từ đâu/ Bão đất chấp cùng bão biển/ Thuyền cha giờ nơi đâu/ Gió thổi lạnh
tang đầu mẹ/ Con bơ vơ giữa biển và bờ … Tiếng con gọi khắp biển bờ/ Chìm trong
nước bạc bao giờ nổi lên”.
Mẹ là bờ sống
nhờ biển và chịu nhiều bão tố: “Cây liễu gió mẹ chịu đầu mũi cát/ Thuyền và hải
lưu bạn đời phiêu bạt/ Mẹ nỗi chờ găm mảnh ánh trăng”. Bài thơ đầu tay về mẹ là
một bài thơ hay của đời thơ ông: “Mẹ là lửa trong bếp/ Khói ấm trên mái nhà/
Giành cho con những gì ăn được uống được/ Còn mẹ ăn gì mà sữa ngọt/ Có ai vì mẹ
mà ta sống”.
Cha mất năm Lê Xuân Đố 14 tuổi. Hình ảnh người
cha đánh cá ám ảnh ông suốt đời: “Sau hoàng hôn đêm phố sáng đèn/ Vẩy cá lưng
cha trứng cá mắt lưới/ Thèm mặt trời biển/ Nước mắt gọi cha/ Long lanh giọt nguồn
vớt lên mẻ cá cầu vọng”.
Quê ông Quảng
Bình đang thời chiến tranh phá hoại ác liệt, bài thơ “Hoa biển” có những câu mỹ
cảm thế này: “Con gái là bờ con trai là biển/ Sóng mạnh mẽ yêu bờ đằm thắm/ Bờ
tắm sóng da cát mịn màng/ Con trai thương con gái gọi tên hoa biển/ Chiến tranh
mang con trai đi xa biển bờ/ Tim con gái biển động/ Sóng có thể cảm thông bào
giũa/ Ngực bớt nhức căng con gái dậy thì/ Nhưng dấu nằm cát không chịu xóa /
Hình bóng con trai tiếng sóng đi về”.
Bài thơ “Bí
ẩn cát” là cục máu con trai biển: “Đêm cát thành sao con thành sao/ Những vì
sao ồn ào ngực biển/ Ước mơ trẻ con sớm hơn bình minh…/ Người làng biển không
nhớ ngày sinh/ Nhớ ngày cúng cơm/ Khói hương thủy thần hà bá/ Ai nhắm mắt bước
khỏi chân mây/ Ai lại về chân sóng/ Cát đóng dấu vào giọng nói hằn sâu nếp nghĩ
một đời”.
Hà
Thành thất thểu văn chương.
Thất thểu
trăm phần trăm nghĩa đen. Những ngày đầu viên chức giống như người dân thời chiến
tranh khốn khó, hiểm nguy. Ông lập gia đinh, lấy vợ tận Quảng Bình càng trắc trở,
vất vả muôn phần. Đất Hà thành vẫn giữ phong độ hào hoa, tao nhã. Lê Xuân Đố
chàng trai làng biển miền Trung thông minh đa cảm, ham hiểu biết bởi sức hút
tinh hoa căn cốt, văn hiến cội nguồn. Tích lượng tình yêu và văn hóa ấy, ông đã
sáng tác gần hai mươi bài thơ về Hà Nội.
Có một kỷ
niệm mà ông sướng và khoe rất hồn nhiên: Nhà thơ Bằng Việt và cả nhà thơ Vũ Quần
Phương tuần đầu nhậm chức chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội thì đều đăng nguyên trang
thơ viết về Hà Nội của Lê Xuân Đố trên báo Người Hà Nội, tờ báo Văn học nghệ
thuật của thủ đô. Bài thơ Nhớ Hà Nội: “Có thể người đi không thấy mặt/ Nhưng
mùi hoa sữa đã đưa qua/ Có thể mười năm không dạo bờ hồ Hoàn Kiếm/ Lòng dạ ta mềm
liễu từng ngày/ Đường đời lắm khi chân không nhấc nổi/ Tâm hồn mở năm cửa ô/
Rét mướt gió mùa đông bắc không thổi tới/ Lòng ta sấu rụng ngày ngày”.
Bài thơ “Nhớ
xuân” là ông nhớ cô gái Hà Nội với thi ảnh hoa đào ngày Tết truyền thống: “Hà Nội
ơi không nguôi nỗi nhớ/ Và em dĩ vãng hoa đào/ Đêm cuối năm ngược chiều gió rét/
Tôi về run rẩy chiêm bao”.
Hà Nội là
một phần đời máu thịt không thể thiếu, ông viết mùa đông Hà Nội qua bài thơ “Cây
bàng”: Hà Thành rét mùa tâm tưởng/ Ủ trời cho xám khói xanh/ Bao tàn lửa xác
bàng gieo ph / Sưởi bước người cho đến mùa xuân.
Khi Hà Nội
mở cửa kinh tế thị trường, xây dựng ồ ạt có lắm bê tông sắt thép, cũng lắm bụi
rác mịt mờ, Lê Xuân Đố lo lắng dõi theo. Ông thầm gọi Hà thành như trong mơ gọi
về nguồn cội: “Gõ cửa phố cổ ba sáu phố phường như gõ lên trăng/ Có người Tràng
An đấy không/ Mây thời gian gặp rêu phong kết tụ/ Sự sống giữa tường long vôi
cũ/ Khát khao nén chặt/ Tưởng đụng vào bung vỡ. Hà Nội khát khao”. Cũng trong
bài thơ này ông tỏ lòng yêu phong thái, cốt cách người Hà Nội một cách thành
kính: “Vòng xoay Bờ Hồ bước người không dứt như đèn kéo quân/ Khoan thai theo
cách người Tràng An lên chùa”.
Hà Nội thời
tuổi trẻ của Lê Xuân Đố. Hà thành thất thểu văn chương nhưng là bà đỡ văn
chương thơ ca của ông, quê hương thứ 2 của Lê Xuân Đố.
Sài Gòn
làm không kịp nhớ
Rất đúng với
Lê Xuân Đố và nhiều người đô thị này. Làm thơ cần lắm đam mê nhưng mưu sinh cần
hơn. Ra khỏi thời hồn nhiên mơ mộng đất Hà thành, sau 30/4/1975, ông đánh liều
đưa vợ ở Quảng Bình vào đoàn tụ TP.HCM. Cuộc đánh cược có một không hai trong đời
ông. Đồng lương một mình công chức, lo ăn cả nhà vừa chạy việc cho vợ nơi đất mới:
“Cơm áo xoay tròn bùng binh/ Tỉnh say vòng xoay Sài Gòn muôn mặt/ Ngộp thở đại
lộ nhân sinh”.
Bước đầu
ông nhập cuộc thơ vỉa hè, chén rượu trái cóc: “Nâng chén cay chòng chành giọt
quý/ Đời xấu xa uống cho đẹp cái đời”. Rồi thơ chợ búa, thơ khổ: “Bần sĩ về
nương bóng chợ/ Một gian nhà sập gió mưa tuôn/ Ăn giỗ trẻ con từng xu nhỏ/ Chau
mày người lớn nghẹn áo cơm/ Văn chương bỏ mối xông bụi/ Cửa mở mắt vô hồn”.
Rồi ông
cũng đón được làn gió mới, cuộc sống khác của phương Nam. Xuống Vũng Tàu tắm biển,
ông có bài thơ Tình ca Vũng Tàu đã mang một tâm cảm khác:
“Bắt đầu hai tiếng em anh
Biển thành
hơi thở sóng thành cõi mê
…
Nước non một
khoảng nuông chiều
Cái hôn
trong sóng đến điêu đứng bờ”
Qua nhiều
ngày sống bụi, Lê Xuân Đố ngỡ ngàng yêu Sài Gòn khi nào không biết mà mỗi lần
đi xa lại nhớ.
“Dễ thương
lại những hàng me quên lãng
Những mối
tính lãng đãng mưa thưa
Làm mát lại
ruột gan thành phố
Ánh đèn
vàng đốt cháy một đời xưa”
(Sài Gòn
sau lưng)
Lê Xuân Đố
tự tin phấn chấn hơn. Thơ cũng khoái hoạt cởi mở xô lệch với không khí một
thành phố lớn đang thời bứt phá với nhiều cơ hội và rủi ro: Lịch sử làm gì
trong bạt ngàn quán nhậu / Cơn gió độc ranh mãnh mát theo giọng hò/ Tỉnh say
vòng xoay Sài Gòn muôn mặt. Và cũng đã yêu góc trữ tình thành phố:
“em bảo em yêu Sài Gòn đêm
lá me rơi
nhìn tóc em xanh thì biết
em bảo em
yêu mùa giáng sinh
sương khói
mong manh lòng lành lời nguyện”
Cuộc sống
nhờ cô vợ xinh đẹp hảo tâm, cô dân quân du kích ngày trước đất lửa Quảng Bình.
Nhờ bạn bè đồng nghiệp thơ phú, rượu chè níu kéo, giúp chỗ ở, làm ăn. Gia tài
ông có được một cửa hàng rồi công ty trang trí nội thất. Ông đã trả hết nợ tiền
in mấy tập thơ đầu và cho ba con gái, một con trai ăn học đàng hoàng. Lê Xuân Đố
ân tính và nhận Sài Gòn là quê hương thứ 3.
Chữ
tràn ngoài trang giấy
Thơ trong
hồn lửa cháy
Cửa trời
hun hút sao khuya
Chữ tràn
ngoài trang giấy
Lửa bùng
tro chữ bay đi.
(Chữ)
Đã đọc 5 tập
thơ Lê Xuân Đố đã xuất bản, ta mới thấy những bước chuyển thơ. Từ thuở đầu thơ
thế sự hay trữ tính đều thơ rút ruột, da diết cội trễ, cội nguồn đến bức phá giọng
thơ hiện đại hơn, trữ tính hơn, nhân sinh, thời cuộc hơn.
Lê Xuân Đố
là nhà thơ viết về thơ gởi gắm, mong mỏi, tranh luận khốc liệt như lẽ sống của
mình: “Với bùa mê thơ/ Anh thiêu thân thức trắng/ Như trọn đời với em/ Ngọt
ngào cay đắng” (Trăm phần trăm). Ông chia sẻ với nàng thơ: “Phỏng vấn nàng chưa
nàng thơ đang khóc/ Nàng thơ Việt đang ở đâu/ Bao giờ nàng hương sả hương sen
tâm hồn dân tộc/ Bao giờ nàng sáng ánh sáng cõi đời tối tăm/ Bao giờ tượng đài
thơ nàng kiêu hảnh quảng trường/ Nhận từ cánh đồng lời hương lúa thơm (Xin độc
giả).
Ông lo cho
nền thơ và hy vọng: “Nàng thơ ở đâu/ Người đọc thơ ngày ít đi/ Thơ trong đời/ Đời
khó ở/ Gập ghềnh âm tiết/ Chữ nghĩa rụng rơi/ Hạt mùa sau/ Tình còn gọi người/
Đời còn muốn ở… Nàng thơ cười Như cô gái
tràn trề hạnh phúc/ Mặt người mới cưới/ Đóng dấu một ban mai (Nàng thơ).
Số lượng
bài thơ Lê Xuân Đố viết về thơ khá nhiều. Thơ, Hồn xác và thơ, Gặp lại bạn thơ,
Hoa hồng em và thơ, Trình diễn thơ, Già trẻ uống rượu đọc thơ, Nàng thơ, Tiệc
thơ… Kể cả hai mươi bài chân dung nhà thơ, thì có đến trên bốn mươi bài nói đến
thơ. Lê Xuân Đố yêu thơ, say thơ đến mức kỳ lạ, hầu hết bạn thơ văn đều xác nhận.
Ông với rượu và bạn không thể tách rời. Mỗi lần cầm chén rượu hay vào cuộc bia
ông đọc thơ khi như hét, lúc trầm lắng như đứt hơi và … khóc, khóc nín, khóc òa
nức nở… đã thành giai thoại dễ thương Lê Xuân Đố.
Nhưng thơ
ông không theo mốt thời thượng. Ông vẫn bám hơi thở đời sống: “Nhà nông ngửa mặt
cầu cậu cầu cô/ Chờ vợ đẻ con chờ đất đẻ củ/ Chờ mưa nắng yêu nhau/ Phồn thực
mùa màng / Tuổi già lột da trẻ lại (Mưa nắng yêu nhau).
Tập thơ “Chúc
phúc lá xanh” xuất bản 2020, Lê Xuân Đố sáng tác 17 năm, tính từ tập thơ thứ tư
“Giọng muối” xuất bản năm 2003. Giai đoạn này đất nước mở cửa thơ cùng với mở cửa
kinh tế thị trường, giới văn nghệ gọi là cởi trói. Thơ Lê Xuân Đố thoáng đãng tự
do như mở chân trời. Câu từ bất ngờ hơn, câu chữ xô lệch, mở rộng biên độ nội
dung cảm xúc với nhiều vấn đề tính cảm, xã hội. Trong tập thơ này bạn đọc dễ nhận
ra một số không nhiều những bài thơ có hơi hướng Hậu hiện đại phương Tây. Nhưng
ông không làm thơ mốt thời thượng, kiếm tìm lối nghĩ, cảm hứng khác, lạ nhưng vẫn
gắn với hơi thở cuộc sống và thiên nhiên. Ví như bài “Sắp đặt”:
“Vườn nhà
nông chổng mông lên trời
nằm úp mặt
úp mồm mũi
hơi hớm
rơm rạ phân chao
thịt da
mình chồi đâm rễ mọc
Nhắm mắt lại
thấy
bụng mình
sôi hay bụng đất sôi
Cổ điển cười.
Tương lai về
Không vội
vàng chim
Hót”.
Tuy trong
đời nhiều vất vã giằng xé, nhưng bổn tính của ông là hồn nhiên, giản dị tự cội
nguồn quê cha đất tổ. Lê Xuân Đố nhẹ nhàng trở về thơ trữ tính truyền thống rất
lẹ. Ông cho rằng cách tân thơ phải từ gốc. Thế giới cũng gọi thơ “tân cổ điển”
đấy thôi. Ông trở về tìm cái đẹp, khuất lấp, ẩn chìm bên trong đời thực, cái ác
cái thiện được phơi bày công bằng, nghiêm khắc với tính yêu đồng loại. Thơ giản
dị mà sâu sắc, rung động đến ám ảnh.
Mời bạn đọc
đọc bài thơ “Hành tinh chúng ta” trong tập thơ “Chúc phúc lá xanh”, đề cập vấn
đề lớn nhân loại mà viết cứ như đùa, hồn nhiên, giản dị: “Trăm ngày hạn mấy
ngày mưa/ Ráo mồ hôi nụ cười đong đưa/ Ngày lại mới/ Hoa không ngừng nở nước
không ngừng trôi/ Thầm thì bên tai: Hôn đi/ Hành tinh bồng bềnh hơi thở”.
Bài thơ “Lãng
mạn Việt Nam” của Lê Xuân Đố có một không hai trong phép trữ tính, nó là đặc sản
tinh thần lãng mạn riêng của dân tộc Việt:
“Việt Nam
lướt qua vườn hoa
Lễ hội
tưng bừng ong bướm
Việt Nam
rung chân giường là cắt rốn anh hùng thi sĩ
Đêm Việt
Nam là Hằng Nga
Chăm sóc
chú cuội gốc đa
Vun xới giấc
mơ qua mùa hiễm họa”.
Như giọt sương như nước mắt, máu ứa, Lê Xuân Đố còn giữ Ngọn lửa đời thơ đi tận cùng cái đẹp mỹ cảm thơ giữa cuộc đời người yêu thương mà không dễ sống?