Giáo sư Trần Đình Sử bày tỏ với giới sáng tác văn chương:
Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời khen ngợi, hãy sống thật sự với nỗi đau của
lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút. Khi ấy ta sẽ thấy thiên
tài xuất hiện.
VĂN CHƯƠNG CÓ ĐAU MỚI HAY
TRẦN ĐÌNH SỬ
Khổng Tử xưa có nói “Thi (Kinh thi, thơ ca) khả
dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”. Khả dĩ hưng, là gây
niềm hưng khởi, cổ vũ. Khả dĩ quan, nghĩa là giúp nhận thức, biết nhiều
chuyện. Khả dĩ quần, nghĩa là tập hợp, gọi đàn. Khả dĩ oán, là nói
lên niềm oán hận, đau đớn. Khổng Tử đã rất tinh ý khi để chữ oán ở vị
trí cuối cùng, không coi là quan trọng hàng đầu, mặc dầu đã không bỏ quên nó.
Vào những năm thời Mao Trạch Đông, trong một
dịp đi sang giao lưu với giới văn chương Nhật Bản, nhà văn Trung Quốc Tiền
Chung Thư có bài nói chuyện “Thi khả dĩ oán” (in trong Tiền
Chung Thư văn tập, 2004, tr. 635–647). Ông bảo người ta bỏ quên lời dạy này của Khổng
Tử đã quá lâu, cho nên trong văn học tuyền chỉ nghe một thứ tiếng ngợi ca,
ngọt ngào, hào sảng, mà không nghe thấy tiếng thương đau. Mà cuộc sống thì đâu
phải chỉ có tiếng reo vui, tiếng hào hùng, tiếng phấn khởi.
Tiền Chung Thư sau khi dẫn lời của Khổng Tử,
liền kiểm kê lại văn học Trung Quốc mấy nghìn năm, xem các thứ thơ hưng,
quan, quần, oán trong lịch sử thế nào. Ông dẫn rất nhiều rồi đi đến kết luận, tiếng
vui, tiếng lạc chỉ có ít trong thơ, trong sử, phần nhiều không thật,
còn tiếng đau, tiếng bi thì rất nhiều và thật. “Oán hận nhi ca” mới
là tiếng thật. Nhạc phủ có “Bi ca hành”, mà không có lạc nhi
hành, có câu “bất bình tắc minh” nghĩa là bất bình thì kêu lên. Ông lại
có câu “phát phẫn trước thư”, nghĩa là có uất đau thì mới viết sách.
Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long” cũng
nói “Trai đau mà thành ngọc”. Thi phẩm của Chung Vinh tuy
có chỗ phân tán, song khi bình thơ “thượng phẩm”, phân biệt với trung phẩm và hạ
phẩm đều nêu các bài thơ oán, thơ hận, thơ đau. Nhà viết kịch Lý
Ngư cho biết cả đời ông toàn là ủ ê đau đớn, không khi nào được nở mày nở mặt,
chỉ khi sáng tác hướng tới nơi ảo cảnh mới thật sự có được niềm vui. Cái cười của
ông trong kịch là tương phản với nỗi đau của đời ông, chứ không phải phản ánh
cuộc đời ấy.
Hàn Dũ đời Đường đã nói “Đại phàm vật khi bất
bình thì phải kêu (minh)”, rồi dẫn Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Trang
Chu, Tương Như, coi là những tiếng kêu đau mới hay, sau đó mới nói đến Mạnh
Giao, rồi nói đến mình, đều cùng một loại. Văn học Trung Quốc cổ có rất
nhiều bài bi thu, thương xuân, khóc tình, khóc đời kiệt tác.
Tiền Chung Thư nói quan niệm thơ văn đau là tư tưởng
chung có tính nhân loại. Điều thú vị là các nhà văn nhà thơ suy nghĩ rất giống
nhau. Nietsche cho rằng người làm thơ như con gà mái đau khi đẻ, nó
có đau thì mới đẻ. Có đau thì mới sáng tác, chứ sướng vui thì chỉ có thi ca tầm
thường. Kêu đau là tiếng tự nhiên, rất tự nhiên, không vì mục đích nào khác.
Nhà thơ Áo Franz Grillparzer bảo, con trai
đau không biết kêu thì nó cho ngọc. Flaubert cho rằng phong cách nhà
văn toát ra từ nỗi đau của con trai, cũng cùng ý ấy. Heiner hỏi: “Thơ
ca của con người phải chăng là hòn ngọc do đau đớn như con trai mà có?”
Nhà thơ Anh A.E.Housman nói thi ca là một sự
trút xả, như cây thông chảy nhựa nơi lở loét, hay như con trai cho ngọc ở nơi
đau. Một nhà thơ Ý nói: Vui sướng khiến người ta khoa trương, ồn ào, còn
đau thương khiến người ta nén lại.
Người Trung Quốc hay nói khi vui thì hoa lòng nở
tung, trái tim mở ra (khai tâm), vui đến mức miệng không khép lại được. Trái lại
khi buồn thì lòng nặng như đá đeo, lòng quặn thắt lại, lòng bị cắt đứt (đoạn
trường). Goethe nói khi vui lòng như mang cái gì hình tròn, êm
ái, khi đau lòng mang một vật hình nhiều cạnh. Cái hình tròn chỉ một loáng nó
đi qua, cái hình có góc cạnh còn vướng mắc mãi. Các nhà thơ lãng mạn phương Tây
cũng nói rất nhiều đến nỗi đau. “Thơ ca đẹp nhất là những thơ ca nói lên niềm
đau đớn”. Có người nói: “Thơ ca đích thực là thơ ca xuất phát từ trái tim đau nỗi
đau của nhân loại, đồng loại”. Lại nói “Bài thơ đẹp nhất là bài thơ tuyệt vọng,
chỉ thuần tuý là nước mắt”. “U uất là điệu tình cảm phù hợp nhất của thi ca”.
Nhà mỹ học Ý là Croce nói “Thi ca là sản phẩm của sự bất như ý”. Một
nhà lý luận Thuỵ Sĩ viết cuốn văn học sử bi kịch, cho rằng “thơ ca, văn học thường
bắt nguồn từ nỗi đau ẩn giấu”.
Tóm lại ông Tiền Chung Thư là nhà bác học,
ông dẫn đủ cổ kim, đông tây chỉ để khẳng định một điều, thơ ca, văn học nhân loại
xưa nay có nhiều thứ, nhưng chỉ những ai động đến nỗi đau con người thì văn
chương mới hay.
Văn học Việt Nam cổ điển có nhiều tác phẩm tuyệt
đỉnh cũng đều là văn thơ đau. Đó là thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đặng Trần
Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu. Thơ cười như Nguyễn Khuyễn,
Tú Xương, Hồ Xuân Hương… cũng đều do đau đớn với đời mà sinh ra. Không có ai
vui, phấn khởi mà làm nên thơ văn vĩ đại, bất hủ...
Văn chương đau ở ta vốn không nhiều, mà còn chưa được
đánh giá đúng mức, nếu không muốn nói là còn định kiến và kì thị. Phải chăng
nói đau thì thiếu lạc quan, thiếu tin tưởng, một tiêu chí của văn chương cách mạng?
Niềm tin con người gắn với sự thật. Chính do nói nhiều điều không thật mà văn học
một thời đã mất đi niềm yêu mến. Văn chương nói thật thì mới có niềm tin yêu
lâu bền. Mà có tin thật thì mới có động lực trong cuộc sống. Không thể xây dựng
niềm tin bằng ảo ảnh hoặc bằng che giấu.
Đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại quan niệm văn học ta.
Cuộc sống đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiếng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tôi
nhớ nhà văn Ngô Thảo có lần lấy câu tục ngữ Nga, “Một nửa cái bánh mì
là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Cũng vậy văn chương
mà chỉ có tiếng khen, tiếng vui, không có tiếng oán thán, đớn đau thì cũng
không phải là sự thật.
Hàng ngày xem báo chí trong nước, báo giấy và báo mạng,
xem tin vui nhiều hay tin buồn, tin đau đớn nhiều? Tin thành công nhiều hay tin
thất bại nhiều? Tin lãng phí, thất thoát, nợ xấu nhiều hay tin chống được tham
nhũng nhiều? Tin bị lấn chiếm nhiều hay tin giành lại lãnh thổ nhiều? Vậy mà
văn chương ít có tiếng oán thì mới lạ. Phải nói rằng báo chí chúng ta thật giỏi.
Họ nhiều khi phanh phui được sự thật, hé lộ những sai sót chết người. Nhân dân
sẽ mang ơn họ. Nhưng còn văn học thì sao? Đã có bao nhiêu tác phẩm nói được nỗi
đau của người dân, của dân tộc? Đã có bao nhiêu tác phẩm nêu lời ai oán? Có bao
nhiêu tác phẩm khóc cho các số phận bất công? Có tác phẩm nào kêu cho những mảnh
đời tan vỡ?
Tôi không có điều kiện đọc nhiều, không tự trả lời được.
Nhưng theo quan niệm chung, văn học thiên về nêu gương, nêu người tốt việc tốt,
nêu gương người tử tế khó mà xuất phát từ nỗi đau. Ta đã có tác phẩm nào
như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn? Có tác phẩm nào như Cung
oán ngâm khúc? Có tác phẩm nào như Ai tư vãn? Chẳng nhẽ nhà văn Việt Nam
hiện thời không biết đau, không hiểu oán là thế nào? Tôi hoàn toàn không tin điều
đó. Vậy có gì vướng mắc phải gỡ cho ra.
Tính từ thời đổi mới đã ba mươi năm qua rồi mà tác phẩm
lớn được coi là chưa có, các tác phẩm cứ bằng bằng. Lại có ý kiến cho rằng nhà
văn ta thiếu tài. Tôi chưa bao giờ cho là như thế. Hãy nhìn lại xem, nhà văn ta
đã sống sâu, sống thật với nỗi đau của nhân dân ta trong suốt mấy thế kỷ qua
hay chưa? Đã thấy nỗi đau đứt ruột về nỗi thống khổ của con người hay chưa? Làm
gì có con trai có tài và con trai bất tài. Mọi con trai đau đớn đều cho ngọc.
Cái tài tự nó chưa là gì cả, nó chỉ có nghĩa khi đem dùng vào việc gì. Rất có
thể ta đã phí tài vào việc miêu tả những cái không quan trọng, dùng vào nơi
không đúng chỗ.
Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời khen ngợi, hãy sống
thật sự với nỗi đau của lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút.
Khi ấy ta sẽ thấy thiên tài xuất hiện.
Hãy làm người bình thường, khi đau thì kêu. Xưa ta chê nhà thơ lãng mạn không đau mà rên, hàm ý là giả dối. Nhưng nếu đau thật mà không kêu thì có giả dối hay không? Nay mỗi người hãy tự hỏi mình có đau hay không? Nếu anh chị có đau thật, đau sâu, đau lớn, đau không thể chịu nổi nữa, không thể ngồi yên, đau như chưa bao giờ đau như thế, tôi tin cậy hoàn toàn ở anh chị, tin hoàn toàn vào văn học Việt Nam.