Nhà nghiên cứu Vĩnh Thông ở tuổi 28 vừa ra mắt cuốn sách biên khảo thứ tư ‘Phong vị Nam Hà’ với nhiều khám phá văn hóa dân gian thú vị.
Nhà nghiên cứu
Vĩnh Thông sinh năm 1996 tại ấp Bình Hòa, xã Bình Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An
Giang. Sống gắn bó với quê nhà, nhưng anh sớm khẳng định được vị trí một cây
bút được sự đón nhận của bạn đọc cả nước. Hiện nay, anh là hội viên trẻ nhất của
Hội Nhà văn Việt Nam lẫn Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
Với tư cách
người sáng tác, Vĩnh Thông có sở trường ở thơ và truyện ngắn. Còn với tư cách
nhà nghiên cứu, Vĩnh Thông có thế mạnh về biên khảo văn hóa phương Nam. Sau ba
tập biên khảo “An Giang núi rộng sông dài”, “Dấu ấn thượng châu thổ” và “Đình
và làng Bình Thủy”, nhà nghiên cứu Vĩnh Thông ở tuổi 28 lại có thêm cuốn sách
“Phong vị Nam Hà”.
“Phong vị
Nam Hà” được nhà nghiên cứu Vĩnh Thông tập trung vào ba chủ đề “Địa danh – Nhân
vật”, “Tín ngưỡng – Tôn giáo” và “Đời sống sinh hoạt” với nhiều phát hiện mới
và nhiều kiến giải lý thú.
Nam Hà là
tên gọi khác của Đàng Trong. Mặc dầu nội dung tác phẩm chỉ gói gọn trong phạm
vi Nam Bộ, tác giả vẫn sử dụng khái niệm “Nam Hà” để nhắc nhớ dấu tích tiền
nhân. Mặt khác, ngoài yếu tố lịch sử, nhà nghiên cứu Vĩnh Thông muốn liên tưởng
“Nam Hà” với “dòng sông phương Nam”. Bởi lẽ, nói đến vùng đất Nam Bộ là nói đến
địa hình sông nước và nói đến con người Nam Bộ cũng là nói đến đời sống sông nước.
Năm 1558,
chúa Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, mở ra trang sử mới cho lịch sử dân tộc.
Sau hai thế kỷ, lãnh thổ Đại Việt mở rộng gấp rưỡi, gần tương đương với lãnh thổ
Việt Nam ngày nay. Song hành với quá trình mở mang bờ cõi, lao động sản xuất,
chống giặc ngoại xâm… là quá trình xây dựng nền văn hóa. Là vùng đất mới, lịch
sử chưa phải quá lâu dài, nhưng Đàng Trong nói chung hay Nam Bộ nói riêng có
nhiều dấu ấn văn hóa độc đáo, vừa đa dạng vừa đặc thù. Đó là nền văn hóa tiếp
xúc và tiếp biến từ nhiều truyền thống như Việt, Chăm, Khmer, Hoa… Để rồi nền
văn hóa dung hợp ấy lại tiếp tục sản sinh nhiều thực hành văn hóa mới mẻ.
Phân tích sự
ảnh hưởng của tiếng Pháp đến văn hóa phương Nam, nhà nghiên cứu Vĩnh Thông phân
tích: “Thời thuộc địa, Nam Kỳ đã tiếp xúc, giao lưu và tiếp biến với văn hóa
phương Tây mà đại diện là văn hóa Pháp, từ đó làm thay đổi căn bản diện mạo văn
hóa xã hội trên nhiều bình diện. Song, văn hóa phương Tây đến chủ yếu bằng con
đường cưỡng bức, cư dân vùng đất nầy có lớp văn hóa bản địa vững chắc và ý thức
cao về bản sắc dân tộc, do đó họ không bị nô dịch về văn hóa. Trái lại, họ chủ
động chọn lọc những yếu tố có giá trị tích cực để đón nhận, đồng thời năng động
sáng tạo để biến đổi cho phù hợp với văn hóa dân tộc.
Về phương diện
ngôn ngữ, người miền Nam đã chủ động và tích cực đón nhận những lớp từ ngữ mới
từ tiếng Pháp, không xem là yếu tố ngoại lai có ảnh hưởng tiêu cực đến ngôn ngữ
dân tộc, mà cố gắng bản địa hóa để gần gũi với đời sống thường ngày”.
“Phong vị
Nam Hà” giúp công chúng tìm hiểu về các danh nhân và sự kiện bị khuất lấp trong
bóng mờ của lịch sử, những di tích và giai thoại, nhiều tập tục đa dạng của các
tộc người, niềm tin liên quan đến núi non của cư dân vùng biên giới, các hiện
tượng tôn giáo bản địa, các loại hình diễn xướng dân gian, những yếu tố văn hóa
được tiếp biến ở Nam Bộ…
Đặc biệt, những
nghiên cứu của các tác giả đi trước chưa đề cập hoặc chỉ nhắc đến sơ lược, thì
nhà nghiên cứu Vĩnh Thông cung cấp thêm nhiều dữ kiện cụ thể và thuyết phục. Chẳng
hạn, “Tục thờ Chiêu Ứng của người Hoa Hải Nam”, “Tín ngưỡng dân gian trong cộng
đồng ở hòn Sơn Rái”, “Xác định lại thời điểm người Chăm đến Nam Bộ” hoặc “Kiến
trúc miếu thờ của người Hoa ở Châu Đốc”.
Trong đời sống
sinh hoạt phương Nam, nhà nghiên cứu Vĩnh Thông cho rằng mắm Châu Đốc là một di
sản biên thùy. Vì sao như vậy? Anh nhận định: “An Giang là nơi đầu tiên đón hai
dòng nước sông Tiền và sông Hậu chảy vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, vùng đất nầy
được thiên nhiên ban tặng nguồn thủy sản dồi dào. Với những tri thức và kinh
nghiệm đã tích lũy, người xưa đã chế biến các loại cá từ sông Cửu Long làm mắm,
nhằm mục đích bảo quản lâu dài. Có lẽ ít ai ngờ rằng, sau hàng trăm năm khai mở
chốn biên thùy, món ăn dân dã nầy lại trở thành thương hiệu mắm Châu Đốc nức tiếng
gần xa.
Để làm mắm,
người dân sử dụng các loại cá rất quen thuộc trong đời sống hằng ngày như cá
lóc, cá linh, cá chốt, cá sặc, cá trèn, cá mè vinh… Cá được làm sạch rồi cho
vào lu, ướp muối, sau đó lấy vỉ gỗ gài chặt lại. Khoảng một hoặc hai tuần sau,
cá được lấy ra để rửa sạch, cho thêm thính (gạo rang xay nhuyễn), rồi cho vào
lu như cũ. Sau khoảng sáu tháng, lu cá được mở ra để chao đường (trộn đường). Để
mắm ngon, thứ đường được sử dụng là đường thốt lốt (theo cách gọi địa phương,
chứ không phải “thốt nốt”) đặc trưng vùng Thất Sơn.
Song, ngoài
yếu tố nguồn thủy sản dồi dào, không thể không kể đến một yếu tố khác cực kỳ
quan trọng, đó là khí hậu. Tây Nam Bộ là vùng đất có nắng nóng quanh năm, do đó
mắm ủ trong lu có thể “chín” nhờ nhiệt độ cao và không bị giòi bọ xâm hại”.
Với “Phong vị Nam Hà” gần 300 trang, nhà nghiên cứu Vĩnh Thông thổ lộ: “Dù năng lực bản thân có giới hạn, tôi vẫn mong mỏi có thể đóng góp một phần công sức nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Nam Bộ, chia sẻ những thông tin bổ ích cho những ai có nhu cầu tìm hiểu, hay chỉ đơn giản là mang đến cho người đọc những phút giây trải nghiệm về vùng đất này”.
NNVN