Mẹ của Phùng Quán tuy lớn tuổi hơn Tố Hữu, nhưng vẫn
là em do bà ngoại Phùng Quán là người đến sau với bố của Tố Hữu. Bởi vậy, về
vai vế, Phùng Quán là thế hệ sau, gọi nhà thơ Tố Hữu bằng cậu.
NGƯỜI ĐẶC BIỆT NHÀ SỐ 4
PHÙNG VĂN KHAI
Đối với anh em Văn nghệ Quân đội, nhà thơ Phùng Quán
là một trường hợp rất đặc biệt.
Khi chúng tôi quyết định treo ảnh nhà thơ Phùng Quán
trên tường căn phòng giao ban, mới thấy tài sản của anh em Văn nghệ Quân đội đến
hôm nay là rất lớn lao. Đó là hàng chục nhà văn nhà thơ đã đoạt Giải thưởng Hồ
Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đáng quý hơn nữa, đã có
nhiều nhà văn nhà thơ được đặt tên phố, tên đường như: Nguyễn Thi, Thanh Tịnh,
Nguyễn Minh Châu, Vũ Cao, Xuân Thiều... Trong đó có Phùng Quán đã được đặt tên
đường tại thành phố Huế cũng chính là con đường dẫn lên khu mộ của vợ chồng nhà
thơ Phùng Quán - cô giáo Vũ Bội Trâm tại phường Thủy Dương.
Cũng không nhiều người biết Phùng Quán có người chú ruột
là Phùng Lưu - lão thành cách mạng, nguyên Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên Huế hiện
nay đã được đặt tên một con đường lớn trong thành phố Huế bởi khi đi hoạt động
cách mạng Phùng Lưu lấy tên là Nguyễn Vạn. Tên đường phố Nguyễn Vạn do vậy rất
ít người biết đây chính là người chú ruột của nhà thơ Phùng Quán. Phùng Quán
còn có một người chú ruột khác là Phùng Thị làm Chánh văn phòng Bộ Văn hóa. Vậy
mà, khi Phùng Quán vướng vào Nhân Văn Giai Phẩm, ông tuyệt không đưa những điều
tưởng chừng lợi thế ấy ra, càng không bao giờ giải thích tại sao. Kể cả đối với
nhà thơ Tố Hữu, người cậu ruột Phùng Quán cũng không dựa dẫm bất kể chuyện gì.
Những điều như vậy càng cho thấy tính cách đặc biệt của nhà thơ Phùng Quán.
Nhà thơ Phùng Quán sinh năm 1932 tại xã Thủy Dương,
huyện Hương Thủy, nay thuộc thành phố Huế trong một gia đình nhà Nho. Tháng 1
năm 1946, khi mới 14 tuổi, Phùng Quán đã tham gia Vệ quốc đoàn, là chiến sĩ
trinh sát của Trung đoàn 101 (Trần Cao Vân) và nổi tiếng là gan dạ, lì lợm nhất
nhì đơn vị. Tiếp đó, Phùng Quán tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, Đoàn Văn
công Liên khu IV. Năm 1954, Phùng Quán tham gia đoàn phóng viên quân đội về Sầm
Sơn - Thanh Hóa để thông tin về sự kiện trao trả tù binh.
Với cá tính gan góc của mình, Phùng Quán đã đi bộ từ Sầm
Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội. Ông đã gặp nhà thơ Hoàng Cầm và được giới thiệu đến Văn
nghệ Quân đội. Tại đây, nhà văn Vũ Tú Nam và nhà văn Từ Bích Hoàng đã giao cho
Phùng Quán viết bài về Sầm Sơn. Thật bất ngờ, Phùng Quán đã viết một mạch trường
ca Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo với số lượng in
hàng chục vạn bản. Tiểu thuyết Vượt Côn Đảo đã gây tiếng vang rất lớn thời điểm
đó và đã đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955.
Với cá tính của Phùng Quán, lại do sớm nổi tiếng khá đột
ngột trong văn giới, ông đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm bằng hai bài thơ: Chống
tham ô lãng phí (Giai phẩm Mùa thu, tập 2, 1956) và Lời mẹ dặn (Báo Văn số 21,
tháng 9 - 1957). Hai tác phẩm trên đã khiến Phùng Quán phải lao đao trong một
thời gian rất dài, phải mượn nhiều tên tuổi của người khác để công bố tác phẩm
của mình. Âu cũng là số phận và thân phận văn chương đến hôm nay khi nhắc đến
chúng ta không khỏi chạnh lòng.
Nhưng Phùng Quán ngay từ đầu chấp nhận và đương đầu với
tai ách văn chương, coi đó là cái nghiệp của mình phải gánh và ông đã rất gan
góc vượt qua. Các tên tuổi văn chương trong Nhân Văn Giai Phẩm như Trần Dần, Đỗ
Nhuận, Tử Phác, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh,... cũng phải đối mặt với
muôn trùng sóng gió đã cho Phùng Quán những kinh nghiệm sâu sắc để đời, cũng là
tạo dựng một bản lĩnh khác thường của ông. Khoảng thời gian cuối năm 1957,
Phùng Quán bị kỷ luật treo bút và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi như Thái
Bình, Hà Nam, Việt Trì, Thanh Hóa,... cho đến cuối năm 1964, Phùng Quán mới được
nhận vào làm việc tại Vụ Văn hóa quần chúng - Bộ Văn hóa tới lúc nghỉ hưu năm
1985.
Tôi hoàn toàn chưa được gặp nhà thơ Phùng Quán, bởi
khi ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tôi mới vừa nhập ngũ, còn chưa biết đến
văn chương nghệ thuật là gì. Tuy nhiên, các giai thoại về nhà thơ Phùng Quán
luôn rất hấp dẫn với anh em chiến sĩ có máu văn nghệ như tôi. Tới khi tôi được
tham gia vào Ban Liên lạc, tiếp đó là Hội đồng Họ Phùng Việt Nam từ năm 2009,
tôi càng để tâm sưu tầm và đăng tải truyền thông các hình ảnh, tác phẩm thơ văn
của Phùng Quán. Chúng tôi đang ấp ủ và dành thời gian, tâm huyết để tiến tới thực
hiện Hội thảo khoa học Phùng Quán - Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp. Bạn bè đồng
nghiệp văn chương đều mong muốn và ủng hộ rất nhiệt thành mọi công tác chuẩn bị
cho Hội thảo.
Từ năm 1957, sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Phùng Quán
không được phép in sách ký tên mình. Ông đã phải tìm mọi bút danh để in văn và
đã tự dựng một chiếc chòi ngắm sóng để câu trộm cá ở Hồ Tây sinh sống. Đến mức,
bạn bè văn nghệ đã gói gọn cuộc đời Phùng Quán thời kỳ này là: “Cá trộm, rượu
chịu, văn chui”. Đã có một chuyện cười ra nước mắt khi Phùng Quán phải mượn tên
Vũ Quang Khải, em ruột của vợ ông là Vũ Bội Trâm để đứng tên tác phẩm Như con
cò vàng trong cổ tích dự thi cuộc Vận động sáng tác về Lênin được hãng thông tấn
Lovosti (Liên Xô) trao giải thưởng. Nhận được giấy mời của Đại sứ quán Liên Xô
tại Hà Nội, Vũ Quang Khải rất lo lắng báo cáo cơ quan và cơ quan đã đồng ý sắm cho
anh một bộ com lê để đi nhận giải.
Hai anh em Phùng Quán, Vũ Quang Khải lo lắng đèo nhau
đến cổng Đại sứ quán mãi Khải mới dám vào còn Phùng Quán ở bên ngoài hồi hộp chờ
đợi. Vậy mà cũng phải đến ngày hôm sau, khi cô thủ kho đi vắng hôm trước trở về
mới cấp được giải thưởng là một tấm bằng, một chiếc xe đạp Liên Xô rất oách và
một bộ com lê.
Người cho Phùng Quán mượn tên nhiều nhất là nhà thơ
Thanh Tịnh khi đó làm Tổng Biên tập Văn nghệ Quân đội. Bất kể Phùng Quán cần mượn
tên Thanh Tịnh ở thể tài nào, Thanh Tịnh đều đồng ý ký tên. Đến mức, các Nhà xuất
bản đã lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao nhà thơ Thanh Tịnh lại sáng tác được
ở nhiều thể loại đến vậy. Thanh Tịnh còn bảo đại ý tớ tuổi cao, các cậu xuất bản
trẻ khỏe chịu khó đi xích lô tới nhà số 4 Lý Nam Đế ký hợp đồng.
Lần nào Phùng Quán lên nhận tiền nhuận bút từ Thanh Tịnh
đều biếu ông anh một con cá chép to câu trộm ở Hồ Tây. Đã có đến trên 60 cuốn
truyện tranh ở Nhà xuất bản Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc Phùng Quán
phải mượn các tên khác nhau mà chủ yếu là tên Thanh Tịnh. Tiểu thuyết nổi tiếng
Tuổi thơ dữ dội (Tập 1, năm 1983, Nhà xuất bản Thuận Hóa) in vẫn phải lấy tên
tác giả là Đào Phương. Mãi đến năm 1988, khi được khôi phục Hội tịch Hội Nhà
văn, Tuổi thơ dữ dội trọn bộ mới được mang tên Phùng Quán.
Một điều đặc biệt, với văn xuôi Phùng Quán đã từng mượn
rất nhiều tên người khác nhau, nhưng với thơ ông tuyệt nhiên chỉ dùng một tên
duy nhất: Phùng Quán. Đây là cá tính, sự nhất quán của Phùng Quán tới giây phút
cuối cùng như ông đã từng viết: Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi - Có những
phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ đứng dậy.
Sự yêu thơ đến thành kính một cách hết sức quyết liệt
như một thứ tôn giáo chỉ có thể có ở Phùng Quán. Phùng Quán luôn là một tên tuổi
mà giới văn bút trong cả nước vô cùng trân quý, mến mộ cả về thơ ca và nhân
cách sống. Cả đời Phùng Quán, nhất là văn chương của ông chính là giấy thông
hành lớn nhất để ông đi khắp nơi, làm nhiều việc có ích với văn chương nghệ thuật.
Đầu thập kỷ tám mươi, khi Phùng Quán đã được đã biên
chế và lĩnh lương cán sự hai 56 đồng tại Cục Văn hóa quần chúng, Bộ Văn hóa, thấy
ông không có việc gì cụ thể nên cơ quan điều lên nông trường Quân Chu - Thái
Nguyên để tăng gia sản xuất. Khi đó đang ở vào thời sau kỳ cuộc chiến tranh chống
Mỹ, ta bị cấm vận gắt gao nên vấn đề lương thực rất quan trọng. Mọi công dân ở
miền Bắc đều ra sức tăng gia sản xuất với các chỉ tiêu rất cụ thể. Phùng Quán
được giao mỗi một vụ 6 tháng phải nộp 3 tạ sắn hoặc mía, khoai tùy từng thời điểm.
Nếu không nộp phải phạt đền bằng tiền. Phùng Quán đã ghi biên tản thế chấp là
chiếc xe đạp mi-ni con vịt - tài sản quý giá nhất của ông với cơ quan.
Thời gian ở nông trường Quân Chu - Thái Nguyên, nơi
lam sơn chướng khí khắc nghiệt ngày trước từng là một trại tù của thực dân
Pháp, mùa đông rét như cắt da cắt thịt, vậy mà các bản làng quanh nông trường hễ
có kỳ cuộc gì như đám cưới, đám giỗ, Phùng Quán đều được mời tới dự và ông đã đọc
thơ rất hay theo yêu cầu bản chủ. Mãi sau này mọi người mới biết ông là nhà thơ
Phùng Quán nên ai cũng quý ông.
Bởi vậy chăng mà thơ Phùng Quán có những bài về cây rất
sâu sắc. Ông có bài Cây cọ: Nhà lợp lá cọ/ Một đời không quá ba lần/ Che mát
nghìn cơn nắng lửa/ Coi khinh nghìn trận mưa tuôn/ Dù trong một mảnh vườn con/ Hay
trên bạt ngàn sỏi đá/ Cọ vẫn sống cuộc đời đại thụ/ Chấp thời gian, mục nát, cuồng
phong/ Cọ vẫn đứng thẳng trăm năm hay hơn nữa/ Che cho mình dăm tàu lá nhỏ/ Che
cho đời nghìn tán lá xanh...
Lâu nay, trong giới văn bút vẫn có những đồn thổi khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau về mối quan hệ giữa nhà thơ Tố Hữu và Phùng
Quán. Trước tiên phải thấy rằng, thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8, bố Phùng Quán
tham gia hoạt động cách mạng bị bắt và chết trong nhà lao Phùng Quán mới một tuổi.
Hai người chú khác của Phùng Quán là Phùng Vạn (Nguyễn Vạn) và Phùng Thị đều sớm
tham gia cách mạng và giữ những trọng trách được phân công. Mẹ Phùng Quán tuy lớn tuổi hơn Tố Hữu nhưng vẫn là em do
bà ngoại ông là người đến sau với bố Tố Hữu. Bởi vậy, về vai vế, Phùng Quán là
thế hệ sau, gọi nhà thơ Tố Hữu bằng cậu.
Trong một tư liệu
kể về việc nhà thơ Tố Hữu khi trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi năm 1998,
đã nói: “Xét cho cùng, không có một sáng tác nào của Phùng Quán lệch lạc về
chính trị cả. Ngay cả bài thơ Lời mẹ dặn bị phê phán một chặp thì cũng chỉ hơi móc
máy một chút thôi”. Trong một bài viết khác của chính Phùng Quán kể về việc đến
chúc Tết nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định mối quan hệ giữa ông và người cậu tuy
không phải rất tốt đẹp song cũng không ở mức xấu như giới văn bút một thời lầm
tưởng. Đó một phần còn do cá tính rất mạnh của Phùng Quán. Nhất là, sau cuộc vướng
vào Nhân Văn Giai Phẩm, cá tính ấy càng dữ dội và nghiêm ngặt cũng là cách
Phùng Quán tự rèn luyện chính bản thân. Đối với những văn nghệ sĩ cá tính như
Phùng Quán, việc ứng xử với người cậu - nhà thơ Tố Hữu luôn là phép thử cũng là
mối quan tâm đặc biệt của giới văn bút thời kỳ đó. Khi có độ lùi thời gian, mọi
việc đã dần trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, chúng ta đã dần dần cởi bỏ được sự
soi xét có phần chưa thỏa đáng về mối quan hệ giữa nhà thơ Tố Hữu và Phùng
Quán.
Một nhân vật đặc biệt quan trong trong cuộc đời Phùng
Quán chính là vợ ông - bà Vũ Bội Trâm. Bà Vũ Bội Trâm sinh tháng 1 năm 1932 tại
số 3 Hàng Cân - Hà Nội. Bà là một cô gái Hà Nội gốc xinh đẹp và học giỏi. Bà đậu
Tú tài năm 1954 tiếp đó vừa dạy cấp hai vừa học dự thính Đại học Sư phạm Khoa
văn khóa I, nhưng phải mãi đến năm 1963 mới tốt nghiệp, sau đó dạy trường cấp 2
Trưng Vương. Từ năm 1970 đến năm 1985, cô giáo Vũ Bội Trâm dạy trường cấp 3 Chu
Văn An. Từ khi quen biết, yêu nhau và lấy nhau, cặp vợ chồng Phùng Quán - Vũ Bội
Trâm đã để lại những giai thoại khiến giới văn bút và nhiều người thân quen, bạn
đọc khắp nơi phải trầm trồ, thán phục.
Khi bị vướng vào Nhân Văn Giai Phẩm, Vũ Bội Trâm khi
đó đang là giáo viên dạy văn đã phải trả lời tổ chức rằng: “Tôi yêu anh Phùng
Quán và nhất định lấy anh ấy làm chồng. Anh ấy là người tốt. Thời gian sẽ trả lời!”.
Đám cưới của Phùng Quán và Vũ Bội Trâm diễn ra năm 1962 tại nhà mẹ nuôi Phùng
Quán ở Nghi Tàm. Bữa tiệc chỉ có bốn người bạn thân và hai vợ chồng Phùng Quán.
Điều đó nếu ở những người khác sẽ trở thành nỗi ám ảnh khó vượt qua, song với vợ
chồng Phùng Quán - Vũ Bội Trâm, từ dấu mốc lịch sử của cuộc đời ấy đã giúp cặp
uyên ương gắn bó son sắt với nhau cho tới giây phút cuối cùng. Đến lúc Phùng
Quán mất năm 1995, bà Vũ Bội Trâm đã đưa chồng về Huế theo nguyện vọng của
Phùng Quán đồng thời sắp sẵn phần mộ cho mình bên cạnh ông. Điều đó đã nói lên
sự lớn lao và sâu sắc hiếm thấy của một mối tình thủy chung bền chặt.
Khi nhà văn Phùng Quán được phục hồi Hội tịch Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1988 cùng với các nhà văn nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,
Hoàng Tích Linh. Mọi người quyết định tổ chức một bữa cơm tại nhà Phùng Quán với
sự có mặt của nhà văn Nguyễn Khải - Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn; nhà văn Xuân
Thiều - Chánh Văn phòng Hội Nhà văn và một số bạn hữu. Bữa cơm rất đơn giản chỉ
với một rổ bún, một bát thịt bò xào cùng với một vò rượu nút lá chuối bày trong
Chòi ngắm sóng của Phùng Quán. Nhà thơ Phùng Quán tươi cười nhưng trịnh trọng
nói: “Gọi là có chén rượu nhạt cảm ơn các anh”. Nhà văn Nguyễn Khải vốn rất hoạt
ngôn đỡ tay Phùng Quán đáp lễ thành thật và xúc động nói: “Các bác không phải cảm
ơn. Đây là lời tạ lỗi của một người em”.
Đã có một thời, việc khôi phục Hội tịch cho những con
người giản dị nhưng lừng lẫy đã diễn ra như thế.
Thơ Phùng Quán luôn nhất quán như chính cuộc đời ông.
Kể cả thơ tình ông gửi tặng một người rất riêng cũng đều rất cách mạng: Có hai
đứa yêu nhau/ Cả hai cùng bộ đội/ Cờ Tổ quốc trên đầu/ Đứa Huế, đứa Hà Nội -
Hai đứa không nhà cửa/ Quân đội là gia đình/ Gặp nhau ngày hội lớn/ Giữa Thủ đô
hòa bình (Hai đứa, 3-7-1955). Bài thơ tình Phùng Quán tặng cho mối tình đầu của
mình với một diễn viên Đoàn Văn công quân đội. Cô văn công xinh đẹp khi đọc Vượt
Côn Đảo đã đem lòng yêu chàng trai xứ Huế tài hoa và quyết liệt.
Mãi mới hẹn được người yêu đi dạo phố, cả hai đều mặc
quân phục, khi đi qua hàng kem Phùng Quán rủ người yêu vào ăn, cô gái nghiêm mặt
bảo: “Anh nên nhớ em và anh là bộ đội”. Đến khi Phùng Quán vướng vào Nhân Văn
Giai Phẩm, từ đó, xuống bếp ăn tập thể, cô người yêu không ngồi với Phùng Quán
nữa. Thậm chí, mỗi khi thấy Phùng Quán, cô lập tức rẽ sang hướng khác. Phùng
Quán đuổi theo đã bị người yêu nghiêm mặt nói dứt khoát: “Tôi không có chuyện
gì để nói với anh nữa”. Ôi chao! Tình yêu ban đầu của chàng thi sĩ họ Phùng biết
mấy trớ trêu!
Nhà thơ Phùng Quán, trong toàn bộ cuộc đời mình, toàn bộ sự nghiệp văn chương nghệ thuật đều là hướng tới con người, Tổ quốc và nhân dân. Ở ông, tuyệt không có mảy may suy nghĩ lệch lạc, càng không bao giờ tuyệt vọng khi bản thân ở vào những khúc ngoặt bi ai, bị hiểu nhầm, thậm chí là oan khuất. Thơ văn của ông luôn sáng trong và quyết liệt đến tận cùng. Ông đã được trả lại danh vị và những thảo thơm cuộc đời đã trở lại bên ông công bằng, đúng mực. Ông đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, được đặt tên cho một con đường trên đất kinh thành Huế nơi ông sinh ra cùng những bậc cha chú, cậu mợ của đại gia đình ông. Sự nghiệp văn chương của Phùng Quán sẽ mãi còn với đất trời, với con người mà ông hằng yêu mến.