Cổ nhân từng dạy: “Trong văn chương nói chung và thi ca nói riêng, nếu thật thà quá thì thành thô lậu, nếu khéo léo quá thì thành điêu toa”. Người làm văn chương, đặc biệt là người làm thơ, phải luôn ở “khoảng giữa”, tức là không quá thật thà và cũng không quá khéo léo. Với “Dấu thời gian”, Nguyễn Văn Mạnh đứng được ở “khoảng giữa” theo cách của anh một cách tự nhiên.
LỢI DANH
THÀNH KHÓI HƯ KHÔNG...
(Đọc “Dấu
thời gian” của Nguyễn Văn Mạnh, NXB Hội Nhà văn 2023)
ĐẶNG HUY
GIANG
Về cơ bản,
thơ Nguyễn Văn Mạnh mang một vẻ đẹp giản dị, thuần khuyết, lại có tình, có ý.
Nhiều bài thơ của anh có nhiều câu đáng nhớ ngay từ khi đọc và để lại ấn tượng
tức thì. Người làm thơ mà có những phẩm chất ấy và những ưu thế ấy thì thật
đáng quý và đáng trân trọng. Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Mạnh lại không điệu đàng,
không làm dáng...- đó là “bệnh” của không ít người, nhất là những người làm thơ
trẻ hiện nay.
Xa xưa, cổ
nhân từng dạy: “Trong văn chương nói chung và thi ca nói riêng, nếu thật thà
quá thì thành thô lậu, nếu khéo léo quá thì thành điêu toa”. Người làm văn
chương, đặc biệt là người làm thơ, phải luôn ở “khoảng giữa”, tức là không quá thật
thà và cũng không quá khéo léo. Với “Dấu thời gian”, Nguyễn Văn Mạnh đứng được ở
“khoảng giữa” theo cách của anh một cách tự nhiên.
Nguyễn Văn
Mạnh có sở trường làm thơ lục bát. Dường như anh đã vượt qua sự thách đố của một
thể thơ khó tính này. Anh không chạy theo vần mà để mất ý, không bị vần điệu dẫn
dắt. Anh chỉ mượn hình thức như là
phương tiện để hướng tới mục đích, đạt được mục đích. Có thể kể tên những bài
thơ lục bát đáng nhớ trong “Dấu thời gian”: “Về quê”, “Ao làng mùa hạn”, “Chiều
nghĩa địa làng”, “Về Huế”, “Lỡ hẹn”, “Qua bến Tầm Dương”...
Trong đó,
có những câu hoặc những cặp trên sáu dưới tám thật đáng chú ý: Lợi danh thành
khói hư không/ Thả hồn theo cánh gió đồng bao la (“Về quê”); Ao tù lòng héo như
dưa/ Trời ơi trời đổ cơn mưa đi trời (“Ao làng mùa hạn”); Mỗi vuông đất một phận
người/ Đã thành cát bụi bời bời chân mây/ Một đời vật vã vần xoay/ Ngửa bàn
tay, trắng bàn tay một đời/ Vẫn nguyên kiếp cỏ dưới trời...(“Chiều nghĩa địa
làng”); Em ngồi trong rét nàng Bân/ Lòng yêu đan áo âm thầm chờ ai/ Bóng trăng
nhạt giữa sơm mai/ Thoảng nghe tiếng gió thở dài qua đêm (“Lục tổng tháng ba”);
Ngóng em hết đứng lại ngồi/ Ngóng em lòng dạ rối bời cả lên/ Nhìn theo cái nón
chung chiêng/ Trách chi lòng vững chân kiềng làm chi (“Lỡ hẹn); Tái tê một mảnh
trăng ngà/ Câu thơ họ Bạch thẳm xa vọng về (“Qua bến Tầm Dương”); Núi mây, mây
núi xa xôi/ Lặn vào vành nón thành lời sông Hương (“Về Huế”)...Riêng hai câu: “Ao
tù lòng héo như dưa/ Trời ơi trời đổ cơn mưa đi trời”, theo tôi, là một cặp lục
bát, cũng rất đáng chú ý.
Những cây
thơ đẹp và đầy tình ý như thế này, được trích dẫn ở dưới đây, cũng không thiếu:
Vầng trăng
trồi lên khỏi sóng
Hoá thành
một chiếc thuyền vàng
Trời xanh
chìm trong bể biếc
Mây trắng
êm trôi lang thang
(“Đêm Cát Bà”)
Yêu nhau cởi
áo trao nhau
Lúng liếng
thả bùa giăng không gian vương vấn
Chiều
thành thơ trong hương trầu cánh phượng...
(Chiều Chi Lăng em hát”)
Nơi ở đó
có mắt người lúng liếng
Lũ con
trai lặng lẽ thở dài
Bao cặp mắt
dán theo tà áo trắng
Theo gió
trời tan hoá áng mây trôi
(“Mái trường”)
“Gặt thơ ở
Đông Nam Bộ” là một bài thơ chân thật, rất hạp với Nam Bộ ở cách nói, cách
nghĩ. Điểm nhấn của bài thơ này nằm ở ba câu: Tôi thả tôi vào nồng nàn/ Tôi gửi
tôi vào đôn hậu/ Đông Nam Bộ rộng vòng tay đón khách. Tương tự, “Tháng mười về
Đền Trạng”, điểm nhấn nằm ở năm câu kết: Vườn xưa giờ cây cao lá biếc/ Tiếng
chim cu vọng gió tháng mười/ Người như đứng bên hiên phe phẩy quạt/ Nhìn mảnh
sân đền.../ Con đổ thóc ra phơi. Chỉ bằng ít chữ ấy thôi, Nguyễn Văn Mạnh đã đọc
ra “chất” Nam Bộ và đọc ra “chất” Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ấy là một Nguyễn Bỉnh
Khiêm rất hiểu chữ thời, chữ biết và chữ nhàn.
Một trong
những tứ thơ hay, chính là “Nghĩ trước cổng chùa”. Tác giả phát hiện ra: Mái
chùa không còn cong như cũ/ Phật đánh môi son/ Áo quần thếp vàng và đá quý và
cái tâm trạng của người đi chùa, bây giờ cũng khác: Dù tiếng chuông vẫn còn
ngân nức nở/ Giữa ồn ã tiếng nói cười/ Khách rời chùa sao như tan hội?. Khách rời
chùa sao như tan hội, không chỉ là một câu hỏi thuần tuý mà còn là một lời
than, một lời cảnh báo, cảnh tỉnh. Chưa hết. Bốn câu kết đã góp phần nâng vực tứ
thơ lên một tầng nấc mới:
Ngàn năm
xưa về đâu
Cổng chùa
trơ trơ chó đá
Hình như
Phật bỏ về trời
Ở đây toàn
sư gõ mõ
Bốn câu
thơ này đã chỉ ra bản chất chùa và bản chất người tu hành lẫn người đi chùa thời
nay một cách sâu sắc và có phần tài tình. Bốn câu thơ này cũng chỉ ra chùa và
những gì liên quan đến chùa, phần lớn chỉ còn là hình thức.
Về mặt hình thức, “Nghĩ trước cổng chùa” là một bài thơ có tứ, có ý tưởng rõ ràng, có kết cấu chặt chẽ, trong khi về mặt nội dung ít nhiều lại đạt đến độ lắng đọng và có giá trị lan toả, phổ quát. Qua bài thơ này, ta càng thấy nhà thơ lớn nửa đầu thế kỷ 20 người Đức B. Brecht thật chí lý khi ông quan niệm: “Những bài thơ hay là những bài thơ giản dị, khó làm”. Thoả mãi cùng lúc hai đòi hỏi vừa giản dị, vừa khó làm, nhìn chung không phải là chuyện dễ dàng gì. Gọi sự vật với đúng tên gọi của nó, biến mọi điều phức tạp thành giản dị, dễ hiểu và sâu sắc...cũng chẳng dễ dàng gì và đó là khả năng của người viết.