Ngay trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm đã có
bài thơ dài “Giữ lấy tuổi trẻ” với nội dung là một bức thư của người em gái
nông thôn hậu phương, gửi người anh ngoài tiền tuyến tố cáo tội ác của giặc
Pháp bắt phụ nữ làm lính
HOÀNG CẦM MƯA
DẦN XANH LẠI LÁ DIÊU BÔNG
PHÙNG VĂN KHAI
Khi thực hiện bộ phim tài liệu chân dung Bên kia sông
Đuống - cái nhìn về cuộc chiến tranh năm 2001 cũng là lần đầu tiên tôi được tiếp
xúc với nhà thơ Hoàng Cầm tại căn nhà nhỏ của ông trên một con phố thủ đô Hà Nội.
Tại sao lại chọn bài thơ Bên kia sông Đuống? Tôi cũng không rõ ai là người đầu
tiên gợi ra tên phim từ một bài thơ của Hoàng Cầm, nhưng cái vế “cái nhìn về một
cuộc chiến tranh” đã khiến anh em làm phim phải rất vất vả giải thích và bản
thân tôi đã có được bài học sâu sắc cho riêng mình. Chẳng hiểu tại sao, đã bước
sang thế kỷ mới, mà cái tên Hoàng Cầm và các tác phẩm của ông vẫn luôn phải chịu
nhiều soi xét.
Phải nói rằng phim khiến mọi người xúc động trước hết
bởi bài thơ Bên kia sông Đuống. Đây là một trong những bài thơ hay nhất trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Nói như một nhà thơ nổi tiếng, Bên kia sông Đuống
cùng với Núi đôi của Vũ Cao; Đồng chí của Chính Hữu; Việt Bắc của Tố Hữu; Tây
Tiến của Quang Dũng là năm ngón tay trên một bàn tay, năm đỉnh núi bổ sung sự
hùng vĩ cho nhau trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Khi thực hiện những cảnh quay phim tại gia đình nhà
thơ Hoàng Cầm ông đã rất yếu, gần như phải ngồi yên một chỗ. Các nhà văn nhà
thơ được Hoàng Cầm mời đến tham dự cảnh quay ai cũng đều rất xúc động khi nghe
nhà thơ Hoàng Cầm đọc thơ trên nền tiếng đàn tam thập lục của một nữ nghệ sĩ
khá nổi tiếng luôn gắn bó với Hoàng Cầm. Không khí lung linh và có phần ma mị ấy
đã luôn theo tôi trong hành trình thực hiện các phim về văn nghệ sĩ sau này.
Hoàng Cầm sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tằng,
nay là phường Tăng Tiến, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Hoàng Cầm cũng gắn
nhiều với cái tên Thuận Thành - Bắc Ninh với tập thơ Mưa Thuận Thành nổi tiếng.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Hoàng Cầm từng thi trượt và về dạy chữ Hán
kiêm thầy thuốc bắc ở Bắc Giang. Hoàng Cầm chính là tên bút danh của ông tự lấy
trong một vị thuốc đắng bậc nhất - hoàng cầm. Tên thật của ông là Bùi Tằng Việt.
Ông mất năm 2010 tại Hà Nội ở tuổi suýt soát 90.
Tác phẩm tiêu biểu của Hoàng Cầm phải kể đến các phóng
tác truyện thơ và kịch thơ: Hận ngày xanh (1940); Bông sen trắng (1940); Cây đèn
thần (1941); Thoi mộng (1941); Mắt thiên thu (19410; Hai lần chết (1941); Tỉnh
giấc mơ vua (1942); Hận Nam Quan (1942); Kiều Loan (1945); Viễn khách (1952); Lên
đường (1952); Ông cụ Liên (1952); Đêm Lào Cai (1957); Tiếng hát quan họ (1956);
Mưa Thuận Thành (1987); Men đá vàng (1989); Trương Chi (1993); Bên kia sông Đuống
(1993); Lá diêu bông (1993); Về Kinh Bắc (1994); Tương lai (1995); Chín chín
tình khúc (1995); Văn xuôi Hoàng Cầm (1997);… cho thấy không chỉ sức lao động
nghệ thuật mà ý thức trách nhiệm trình ra những bản sắc văn hóa dân gian, sự kiện
và dấu mốc lịch sử trong văn học nghệ thuật của Hoàng Cầm là vô cùng lớn lao,
thậm chí ở như một vĩ nhân.
Trong cuộc đi công tác Điện Biên Phủ đầu năm 2024, giữa
những cung đường đèo trơn trượt khúc khuỷu đầy bất trắc, chúng tôi vẫn đọc thơ
của Hoàng Cầm, trò chuyện về Hoàng Cầm với những câu chuyện đã trở thành giai
thoại. Chuyện rằng, ngay sau chiến thắng Điện Biên, nơi hầm hào còn khét lẹt
mùi thuốc súng, Hoàng Cầm khi đó là trưởng Đoàn Văn công đã lập tức tổ chức một
đêm liên hoan văn nghệ rất đặc sắc. Khán giả đông nghịt ở dưới ai nấy đếu rất
xúc động chăm chú lắng nghe những lời ca, tiếng hát, điệu múa của văn công. Đỉnh
điểm là màn hát quan họ tình tứ giao duyên. Trên sân khấu, những anh hai, chị
hai xúng xính mớ ba mớ bảy lúng liếng trao tình vào câu hát. B
ỗng từ phía khán giả, một người cao lớn nhảy phắt lên
sân khấu rút súng chĩa lên trời bắn chỉ thiên miệng hô lớn: “Đả đảo bọn đồi trụy!
Bao nhiêu xương máu để các người diễn trò chim chuột trên sân khấu là làm sao…”
Không khí căng như dây đàn. Các diễn viên sợ hãi dạt vào một góc cánh gà.
Ở hàng ghế đầu tiên, đích thân Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh khi đó đang ngồi dự đã lập tức bước lên sân khấu yên ổn trật tự và nói
rõ: “Quan họ là hồn cốt của dân tộc. Chúng ta phải biết giữ gìn và thưởng thức
những giá trị văn hóa đó. Ai không muốn xem đều có thể trở về quân doanh, tuyệt
đối không được làm bừa”. Không khí khi đó tuy đã được lập lại trật tự song
không còn được như trước. Đoàn trưởng Hoàng Cầm rất hiểu sự biểu hiện của văn học
nghệ thuật, nhất là các loại hình như quan họ không phải lúc nào và ở đâu mọi
người cũng hiểu và hoan nghênh, đón nhận tài hoa của tác phẩm và người nghệ sĩ.
Ngay trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm đã có
bài thơ dài “Giữ lấy tuổi trẻ” với nội dung là một bức thư của người em gái
nông thôn hậu phương, gửi người anh ngoài tiền tuyến tố cáo tội ác của giặc
Pháp bắt phụ nữ làm lính: “Em viết thư cho anh/ Trong làng còn lửa đỏ/ Tay viết,
lòng càng nhớ/ Thầy, giặc giết nằm kia/ Tiếng súng bờ sông khuya/ Đến nay còn
xé ruột… - Em thấy bóng các chị/ Dù bị giặc giày vò/ Đôi mắt còn mở to/ Nhìn trời
sao sáng mãi/ - Tuổi trẻ quyết giằng lại/ Chặt tay lũ súc sinh/ Trong ấy bùng đấu
tranh/ Ngoài này súng lên đạn… - Thư em viết không cạn/ Lòng căm giận tràn đầy/
Anh xuất trận đêm nay/ Bao quân thù gục xuống?”
Bài thơ “Giữ lấy tuổi trẻ” của Hoàng Cầm khi ra đời
trên báo Quân đội nhân dân ấn hành tại mặt trận đã nhanh chóng trở thành bài
thơ trong ba lô của chiến sĩ và cán bộ ta ở Điện Biên, được Đại tướng Võ Nguyên
Giáp khen ngợi. Tác giả Hoàng Cầm được tặng Huân chương Kháng chiến Hạng nhì
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bài thơ Giữ lấy tuổi trẻ đã cho thấy ý thức
công dân và quân nhân của Hoàng Cầm luôn sâu sắc, ông luôn đặt trọng trách và
nghĩa vụ người chiến sĩ trong phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Nhưng Hoàng Cầm trước hết và trước tiên luôn thuộc về
thơ. Những vần thơ nhuốm sắc màu phiêu diêu, ma mị, thậm chí là bí ẩn của Hoàng
Cầm luôn ám ảnh người đọc: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/ Chị thẩn thơ đi
tìm/ Đồng chiều/ Cuống rạ/ Chị bảo đứa nào tìm được lá diêu bông/ Từ nay ta gọi
là chồng... - Hai ngày em tìm thấy lá/ Chị chau mày đâu phải lá diêu bông! -
Mùa đông sau em tìm thấy lá/ Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông/ - Ngày cưới
chị em tìm thấy lá/ Chị cười xe chỉ ấm trôn kim/ - Chị ba con em tìm thấy lá/
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn - Từ thuở ấy em cầm chiếc lá/ Đi đầu non cuối bể/
Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời!... Ới diêu bông (Lá diêu bông).
Đã trên nửa thế kỷ từ dấu mốc 1959 khi bài thơ ra đời,
được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc đã trở thành một dấu mốc của thơ ca và âm nhạc. Lời
thơ rất lạ. Tình ý cũng khác thường. Lá diêu bông càng không có thật. Tại sao
tình chị duyên em dang dở vẫn luôn gây cho người đọc sự tiếc nuối, sự vận vào
vô khối mối tình chị - em vừa chính đáng vừa cắc cớ. Tại làm sao chị cứ phải đặt
em vào những khoảnh khắc, câu chuyện, thậm chí là đặt ra những bài toán không
thể nào giải được? Làm gì có lá
diêu bông? Tại sao em mãi đi tìm? Điều này cả chị và cả em đều biết rõ. Thơ ca
là như vậy. Sức sống và sự sống bền lâu của Lá diêu bông chính là như vậy.
Trong các lần trực
tiếp gặp gỡ, ghi hình và phỏng vấn nhà thơ Hoàng Cầm. Tôi luôn có cảm giác ở
trong ông có rất nhiều con người ẩn hiện chập chờn, khi xa vắng, khi mộng mị lại
có khi rất đỗi tinh khôn. Ông đã thừa bầm dập để không cần thiết phải trả lời
cánh trẻ chúng tôi những câu chuyện tai ách của văn chương nghệ thuật. Không ít
tác phẩm thơ văn như Màu tím hoa sim của Hữu Loan; Lời mẹ dặn của Phùng Quán; Tây
Tiến của Quang Dũng và trong đó có Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã từng một
thời bị “khoanh lại” mà các vị Hữu Loan, Phùng Quán, Quang Dũng, Hoàng Cầm đều
tuyệt nhiên không nói một lời. Đã có khoảng thời gian là như vậy. Nói như giáo
sư Trần Quốc Vượng là “cái nước mình nó thế”.
Với các văn nghệ
sĩ tên tuổi trong đó có Hoàng Cầm, ông thừa hiểu đã mang trong mình dòng máu của
thi ca, thì điều quan trọng nhất là phải tận hiến cho thơ ca, để thơ ca đến được
đời sống con người mặc kệ những dập vùi, khúc khuỷu và thậm chí là thua thiệt sẽ
giáng trực tiếp vào những người viết ra những tác phẩm theo đúng với sự rung động
của trái tim. Những tác phẩm máu thịt nhất nhiều khi phải chịu ở số phận ngặt
nghèo nhất.
Một trong những dấu
ấn rất Hoàng Cầm, đó là Mưa Thuận Thành.
Nhớ mưa Thuận
Thành/ Long lanh mắt ướt/ Là mưa ái phi/ Tơ tầm óng chuốt/ Ngón tay trắng nuột/
Nắng bồng Thiên Thai - Hạt mưa chèo bẻo/ Nhạt nắng xiên khoai/ Hạt mưa hoa
nhài/ Tàn đêm kỹ nữ/ Hạt mưa sành sứ/ Vỡ gạch Bát Tràng... - Chiều khô lá ngải/ Mưa gái thương chồng/ Ướt
đầm nắng quái/ Sang đò cạn sông...
Mưa Thuận Thành chính
là sự tiếp tục một cách rõ ràng nhất của Lá diêu bông với một mạch ngầm văn bản
đậm đặc chất Hoàng Cầm. Chỉ có thể là Hoàng Cầm mới sắp đặt chữ nghĩa, nhất là
ý tứ trong thơ ông luôn chẳng bao giờ bạn đọc dễ dàng đoán định. Phẩm chất này
đã theo suốt Hoàng Cầm từ sáng tác đầu tiên tới sáng tác cuối cùng của ông. Mưa
Thuận Thành được viết năm 1987, sau Lá diêu bông gần 20 năm, song tinh chất của
nó đều là một mẹ sinh ra, cùng xương cùng thịt đã cho bạn đọc một rung động thẩm
mĩ nhất quán như ngày đọc Lá diêu bông.
Hoàng Cầm là một
trong những nhà thơ thời kỳ chống Pháp có nét riêng độc đáo không lẫn với ai.
Ông khác Nguyễn Đình Thi cả về thơ cả và những biểu hiện trong đời sống. Ông
càng khác với các nhà thơ Chính Hữu, Quang Dũng, Vũ Cao, Hữu Loan,... Trong thơ
ca, Hoàng Cầm luôn thắm thiết. Trong đời sống, Hoàng Cầm càng thắm thiết hơn
nhiều. Có biết bao người đẹp yêu thơ ông, tình nguyện đến với ông đến hôm nay vẫn
còn là một ẩn số. Các nhà thơ thành danh có thể ít khâm phục nhau nhưng dường
như tất cả mọi người đều khâm phục Hoàng Cầm. Đó cũng là một điều bí ẩn.
Nhưng với Hoàng Cầm,
đỉnh cao của ông phải là Bên kia sông Đuống - một tượng đài thơ giờ đây không chỉ
thuộc riêng của Hoàng Cầm.
Khi thực hiện phim
tài liệu Bên kia sông Đuống - cái nhìn về một cuộc chiến tranh, đoàn làm phim
chúng tôi đã phải nhiều lần sững sờ trước vẻ đẹp của bài thơ mà không dễ gì đưa
hồn vía của nó vào phim được, cho dù đã dùng đủ cách, mời các nam, nữ nghệ sĩ tên
tuổi trình diễn một cách hết sức tâm huyết. Tôi còn dàn dựng bối cảnh đưa diễn
viên vào trong một ngôi đình cổ trên đất Sóc Sơn, dùng chiêng trống, đèn nến và
trang phục cổ để ghi hình mà vẫn chỉ thấy mình đang ở vòng ngoài của bài thơ.
Hình ảnh truyền hình làm sao mô tả hết: Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh/
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ/ Xanh xanh bãi mía bờ dâu/ Ngô
khoai biêng biếc/ Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ Sao sót xa như rụng bàn
tay...
Tượng đài thơ Bên
kia sông Đuống được Hoàng Cầm viết ra rất sớm trên núi rừng Việt Bắc tháng 4
năm 1948. Tất nhiên là trong một đêm lạnh vắng giữa núi rừng xa núi thẳm nghìn
trùng nhớ về dòng sông Đuống với những cung bậc cảm xúc khác thường. Nhà thơ Hoàng
Cầm từng nói và điều này tôi đã ghi hình cẩn thận rằng Bên kia sông Đuống chính
là có một người ở cõi âm đã đọc cho ông nghe từng câu, từng chữ trong đêm khuya
và ông cứ thế chép ra một mạch không phải chỉnh sửa gì. Tôi khi đó bỗng chốc
rùng mình nhìn vào môi miệng Hoàng Cầm đang bỏm bẻm nhai trầu đỏ rực giữa hàm
răng đen chiếc còn chiếc mất càng như không tin ở tai mình. Hoàng Cầm như không
để ý đến máy quay phim phía trước cứ thể đọc từng dòng Bên kia sông Đuống càng
khiến đoàn làm phim chỉ biết phăng phắc bấm máy ghi lại.
Bên kia sông Đuống/
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong/ Dăm miếng cau khô/ Mấy lọ phẩm hồng/ Vài thếp
giấy đầm hoen sương sớm/ Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn/ Khua giày đinh đạp
gãy quán gầy teo/ Xì xồ cướp bóc/ Tan phiên chợ nghèo/ Lá đa lác đác trước lều/
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông... Hoàng Cầm rất giỏi đặc tả những khung
hình bằng thơ tài tình đến mức hôm nay cánh trẻ làm truyền hình đã phải bất lực
trước các hình ảnh trong thơ ông. Chỉ đơn thuần dùng máy quay phim để diễn tả Bên
kia sông Đuống chẳng khác gì đánh trống qua cửa nhà sấm, bì phấn với vôi, song
chúng tôi cũng chỉ biết dùng hết khả năng thế mạnh của hình ảnh, âm thanh, và
nhất là sự rung động của con tim để thể hiện tác phẩm phim tài liệu về Hoàng Cầm.
Phim ấy, sau này tôi có báo cáo với nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt
Nam và bàn giao ổ cứng cho Bảo tàng Văn học Việt Nam.
Khi tôi viết những
dòng về nhà thơ Hoàng Cầm, không hiểu tại sao luôn văng vẳng lời thơ Bên kia
sông Đuống, không hiểu tại sao lời thơ cứ thế ùa về: Bao nhiêu nắng đẹp mùa
xuân/ Gió đưa tiếng hát về gần/ Thợ cấy đánh giặc dân quân cầy bừa/ Tiếng bà ru
cháu xế trưa/ Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu/ - Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng
anh đau/ Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu/ Cánh đồng im phăng phắc/ Để con đi
giết giặc/ Lấy máu nó rửa thù này/ Lấy súng nó cầm chắc tay/ Mỗi đêm một lần mở
hội/ Trong lòng con chim múa hoa cười...
Thơ Hoàng Cầm luôn
là như vậy, luôn để người đọc phải bất
ngờ cho dù bài thơ đã hiện hình và quen thuộc trên 70 năm, đã chịu sự thử thách
nghiệt ngã về thời gian, nhất là sự cọ xát, đào thải khốc liệt của bạn đọc nhiều
thế hệ.
Đối với lứa nhà
văn trẻ chúng tôi, nhà thơ Hoàng Cầm như một đỉnh núi quanh năm mây phủ mà nhiều
khi chỉ có thể đứng ở dưới chân núi từ xa vái vọng mà thôi. Những tác phẩm, câu
thơ của Hoàng Cầm, chúng tôi chỉ có thể mê đắm ở trong lòng chứ tuyệt đối không
thể nào viết ra chúng được. Thơ của chúng tôi ở một tầm thấp hơn nhiều. Chúng
tôi hãy còn to tiếng, khoe khoang chữ nghĩa, nhất là khoe công khoe của, khoe
tài khoe mẽ ở văn chương nên càng đi càng thấy thấp dần là như vậy chăng? Chẳng
như Hoàng Cầm, không bao giờ ông đao to búa lớn trong văn chương nghệ thuật.
Nhà thơ Hoàng Cầm,
thơ ca và những gì cao rộng hơn thơ ca từ đời sống của ông, đã cho thế hệ hậu
sinh chúng tôi, những bài học vô cùng đích đáng và thấm thía.
Xin được tạm kết
bài viết về ông bằng một bài thơ tôi làm khi ông mất:
Mưa Xứ Đông
(Kính viếng Hoàng
Cầm)
Một lạy Hoàng Cầm
đếm mưa Kinh Bắc
ta nghe xứ Đông
giọt buồn lắc thắc
Nên Vua nên Chúa
thương gạch Bát
Tràng
ta đành phận cỏ
ôm vào đa mang
Mặn giọt mưa oan
nhẹ hồn kỹ nữ
đắng nghẹn trong
lòng
bàn chân lữ thứ
Nghe bàn tay ấm
lạnh dần mưa rơi
nghe bàn chân ấm
chạm toàn gió thôi
Trời rộng như nhau
mưa dần xanh cỏ
đời chật như nhau
bốn bề sóng gió.