Tham luận của nhà văn Văn Chinh viết cho cuộc Hội thảo giữa hai Hội Nhà văn Việt Nam và Trung Quốc dự kiến tổ chức tháng 11/ 2023, với chủ đề "Viết trong những thay đổi của thế giới". Do vài lý do khách quan, Hội thảo đã được lùi lại. Nguyên văn in trên Viết & Đọc mùa Xuân 2024.


SỨ MỆNH CỦA NHÀ VĂN TRƯỚC NHÂN TÍNH VÀ TỰ DO, DÂN CHỦ

VĂN CHINH

Tôi có lần nói, tiểu thuyết là đứa con ngoài giá thú của nhà quý tộc sa sút với bà góa thị dân suồng sã, nó toát lên từ đời sống thật của Tào Tuyết Cần giữa một xã hội thị dân từ lễ giáo phong kiến ngả dần sang tiền tích lũy tư bản. Nhưng tác giả Hồng Lâu Mộng không ngoái lại tiếc nuối thời vàng son dĩ vãng, ông hướng tới tư tưởng thời đại: Đó là tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán những giáo điều cổ hủ đã thành cặp nhiễm sắc thể thứ 25 của con người Á Đông nói chung. Đạo diễn Vương Phù Lâm sử dụng bài ca về khát vọng tự do yêu đương và tràn đầy nhân tính của Vương Lập Bình để kết thúc phim Hồng Lâu Mộng là họ thấu hiểu tiểu thuyết và đã truyền ám ảnh của mình tới người xem. Chi tiết Lâm Đại Ngọc cùng Giả Bảo Ngọc chôn hoa ngời ngợi nhân tính trong một xã hội mà quy củ ước thúc cũ như phiến đá nén dưa tinh thần con người và nhân thể bóp nghẹt mầm nhân tính còn non dại. Tôi thích cái tên ban đầu hơn, “Thạch đầu ký” (石頭記) vì nó chứa cái cốt lõi nhiều hơn.

Muộn hơn Tào Tuyết Cần chừng một thế kỷ, Harriet Beecher Stowe ở bờ kia Thái Bình Dương xuất bản “Túp lều bác Tôm” năm 1851. Sử gia nổi tiếng Mỹ hiện đại, ông Franck L. Schonell đã viết trong“Lịch sử Hoa Kỳ”: “Độc giả cảm thấy tính xác thực trong những cảnh tả chân về cuộc đời chua xót của nô lệ tại những đồn điền miền Nam, cảm thấy là những ông chủ bạo tàn kinh khủng mà tác giả mô tả là có thật. Còn Tổng thống Abraham Lincoln gọi nữ sĩ Harriet Beecher Stowe là "quý bà nhỏ bé châm ngòi cho cuộc chiến vĩ đại".

Năm 1945, Nhật phát xít thất trận, cái nước Nhật cổ điển của Kawabata đã chết và ông khóc than rồi thở dài trong “Tiếng rền của núi”. Mượn lời sấm dân gian, nước Nhật sẽ có biến khi núi Phú Sĩ phát ra tiếng rền từ lòng đất, Kawabata lại mượn thêm đôi tai dị thường, có khả năng nghe được mọi âm thanh mơ hồ dù là nhỏ nhất của ông lão Ogata Shingo để kết nối mọi cung bậc uể oải, day dứt, xói mòn nhân tính trong tình thế bi thảm của dân tộc; ông muốn nhắn nhủ các nhà văn phải nghe được mọi cảnh báo mơ hồ nhất mọi cung bậc thăng trầm của dân tộc, nhà văn phải nghe thấy khi mọi điềm triệu còn mơ hồ như có như không để dự báo nguy hiểm cho đồng loại một cách chính xác. Đồng thời, “Tiếng rền của núi” cũng như “Xứ tuyết” và “Ngàn cánh hạc” Kawabata muốn nhắn nhủ đồng loại: Hãy bắt đầu lại, không phải bằng các bước chân kiêu ngạo để tiếp tục một nước Nhật phát triển đến khủng hoảng rồi phát xít hóa; mà hãy bắt đầu tiếp tục cái nước Nhật cổ điển bị đứt gẫy.

Thi hào Nguyễn Du là người đồng thời với văn hào Tào Tuyết Cần, cũng đều là con em trong một danh gia vọng tộc nhưng cả hai đều hướng tới chủ nghĩa nhân bản vừa manh nha. Các nhân vật của họ đều tự do yêu đương, khác hẳn với những giáo lý mà họ được dạy, với gia huấn phai theo; suốt đời Kiều còn tôn thờ chữ Trinh dành cho Kim Trọng như Nguyễn Du thờ tư tưởng nghệ thuật của riêng mình. Đó là hướng đến “thập loại chúng sinh”, lo cái đói nghèo yếu thế của họ, thương nỗi đau của họ, xót xa những phận người dưới đáy:

Trong trường dạ tối tăm trời đất

Có khôn thiêng phảng phất u minh

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Nhưng không chỉ có thế, Nguyễn Du còn có chính kiến riêng về một quan niệm sai lầm khi độc quyền chân lý; ở đây là quan niệm “chân lý thuộc về kẻ mạnh” phổ biến ở nhiều ngôn ngữ hay nôm na như người Việt nói: “Vai đeo túi bạc kề kề/ Nói phách nói lối cứ nghe rầm rầm.” Các suy đoán rất khác nhau giữa Khuất Nguyên, Tống Ngọc và Nguyễn Du về quan niệm: “Đời đục mà ta trong.” Khuất Nguyên có lý do để viết câu nổi tiếng ấy. Ông thờ vua Sở, tận trung, liêm khiết. Nhưng Sở vương tin nghe bọn Thượng Quan tham lam vô sỉ.

Trên đường đi đày, Khuất Nguyên đã tự vẫn trên sông Mịch La. Tống Ngọc bạn ông đã làm bài từ “Chiêu hồn” nổi tiếng, đại ý hồn đừng về tứ di man địch: “Hồn chớ lạc về đấy.” Chớ về phương Đông, nơi có 10 mặt trời thiếu cháy hồn mất. Chớ về phương Bắc, nơi cúi băng sông tuyết lạnh lẽo. Chớ về phương Tây, nơi con kiến to như con voi, con ong to như cái bầu. Chớ về phương Nam, nơi cúng tế toàn thịt người, xương băm làm mắm ruốc Chỉ có Yên Dĩnh nước Sở là đáng sống nhất. Tư tưởng “dĩ ngã vi trung” không phải của Tống Ngọc, nó, trùng khít với Khuất Nguyên, “đời đục mà ta trong”; Tống Ngọc chỉ phát ngôn nó và vừa chiêu hồn bạn vừa ngợi ca vua Sở. Chiêu hồn vang vọng suốt 2000 năm, được các nhà thơ Đường Tống ngâm ngợi, tán thưởng. Chỉ có Nguyễn Du viết bài“Phản chiêu hồn”:

Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan

Đại địa xứ xứ giai Mịch La

Xin nhớ rằng, viết như thế là khi quân phạm thượng – một tội chết vào thời của ông. Vua Tự Đức đọc “Truyện Kiều” đến câu Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã nói nếu tác giả còn sống thì nọc ra đánh 50 trượng vì câu thơ tung hoành này. Viết câu đời sau ai cũng là Thượng Quan, mặt đất đâu cũng là sông Mịch La [nghĩa là Sở vương thời nào cũng có, mà Sở cương có thì Thượng Quan cũng có và Mịch La ở đâu cũng sẵn] Nguyễn Du đã bộc lộ một tư tưởng lớn của người Việt. Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du sẽ trở lại:

Chàng rằng khéo nói nên lời,

Mà trong lẽ phải có người có ta.

Đây là một tư tưởng lớn và độc đáo của đương thời. Giữa người với người, nó giúp cả hai hiểu nhau, tôn trọng nhau hơn; trong gia đình, nó khiến hòa thuận, hạnh phúc, đặc biệt nó giúp mọi thành viên nam phụ lão ấu được tôn trọng phát triển cá tính nhân cách. Sang thế kỷ XXI, thời đại hội nhập nó trở thành một nguyên lý cho hợp tác quốc tế, cho hòa bình và trở thành nền tảng của hữu nghị bền vững.

Chúng ta vừa trở lại với các giá trị cổ điển của bốn nhà văn lớn Trung Quốc, Nhật, Mỹ và Việt Nam. Quốc tịch của họ khác nhau, hoàn cảnh xuất thân cũng như sở học sở kiến khác nhau nhưng tư duy và văn hóa của họ đều thuộc về nhân loại. Họ đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh nhà văn trước khát vọng tự do, dân chủ để hoàn thiện nhân cách người không biên giới. Đó là cơ sở của minh triết văn chương là công cụ tình yêu của xã hội; là chìa khóa vạn năng, là lẽ bất biến để ứng phó với thiên vạn biến mà thế giới đang diễn ra.

*

* *

Cuộc cách mang tháng Tám của Việt Nam thành công gọn gàng, trên nét lớn là không đổ máu. Về sau, Chính phủ cụ Hồ còn đoàn kết được mọi giai cấp, tôn giáo, các nhóm chính kiến kể cả các quan đại thần nhà Nguyễn là nhờ ở khát vọng độc lập, cộng hòa, dân chủ và tự do được đánh thức sâu sắc, toàn dân tộc. Đó là sự nghiệp lớn của đất nước chúng tôi, của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng giác ngộ là một quá trình; trong đó đóng góp của các nhà văn là đáng kể. Họ gồm các nhà thơ Mới, nhóm Tự lực Văn đoàn; nhóm hiện thực phê phán; nhóm văn học yêu nước và Cách mạng. Văn học đã làm tơi mềm tâm thức người người lớp lớp, khi Cách mạng gieo những hạt giống đỏ, chúng rất nhanh thành cây, thành rừng.

Khát vọng tự do lớn trong quá trình Cách mạng, Kháng chiến bảo vệ độc lập lại nảy nở những hạt mầm của thi pháp thơ Tự do không vần do nhà văn Cách mạng Nguyễn Đình Thi chủ xướng. Suýt nữa, chúng tôi đã có cuộc cách mạng thi ca liền ngay cuộc cách mạng thi ca vĩ đại lần thứ nhất ở thập niên 1930. Thật tiếc, kháng chiến với vô cùng gian nan và với những đòi hỏi nghiêm khắc của nó, nên cuộc cách mạng thi pháp lẽ ra gói gọn trong những năm 1940 – 50 đã phải tiến hành suốt từ bấy đến nay. Vâng, đồng hành với dân tộc, với đồng bào là nét căn bản, xuyên suốt và bền bỉ nhất của các nhà văn Việt Nam. Xin kể hai chuyện để chứng minh:

1, Người Việt, kể cả nhóm tinh hoa trong thập loại chúng sinh rất thích bói Kiều. Họ coi ông là đấng siêu nhiên, ít ra cũng phải La Hán, Bồ Tát. Khi bói, họ gạt mọi tạp niệm, dọn dẹp tâm tư đến chí thành rồi khấn niệm rằng: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy Tiên Thúy Kiều…con xin [số dòng, từ trên xuống hay dưới lên] nam mô a di đà Phật.” Nó cho thấy, vào lúc bấn loạn tâm, lúc gặp gian nan bất trắc, thập loại chúng sinh nghĩ đến nhà văn.

2, Phiên khai mạc Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV, tháng 12 năm 1989; Chánh văn phòng Hội, nhà văn Xuân Thiều trình trước Đại hội hàng mấy kilogam đơn từ, kiến nghị của người dân, xin Hội Nhà văn xử lý hoặc đệ đạt lên các cơ quan cấp trên. Lòng tin cậy các nhà văn của thập loại chúng sinh là tuyệt đối, nó nằm ngoài mọi cơ sở lý lẽ.

Ngược lại, các nhà văn Việt Nam xứng đáng được nhận niềm tin hồn nhiên ấy.

Nếu gọi Đổi mới [1986] là Cải cách mở cửa [1978] như Trung Quốc thì tiếng gõ cửa đầu tiên và dai dẳng nhất là các nhà văn. Chùm truyện ngắn Khách ở quê ra, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu; các tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu; Thời gian của người, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải; Mùa lá rụng trong vườn, Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng; Đứng trước biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn…chính là những tiếng gõ vào cánh cửa tự do dân chủ. Thân phận con người lần đầu sau 40 năm được bày ra dưới “cái nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, được đón nhận. Thân phận của các nhân vật như là nạn nhân của các giáo lý cứng nhắc, hẹp hòi, duy ý chí; của các phương thức sản xuất nóng vội, ấu trĩ khiến những người bảo thủ nhất, dù không thích nhưng vẫn phải thừa nhận. Kinh tế đổi mới, văn học “cởi trói”đã giải phóng nguồn năng lượng bị dồn nén bí bích lâu ngày và chỉ sau 18 tháng, Việt Nam từ một nước nhập khẩu hàng triệu tấn gạo mỗi năm, đã xuất khẩu 1,5 triệu tấn vào năm 1988. Cũng tại thời điểm này, các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Lập đã cùng hàng chục đồng nghiệp khác làm xao xuyến văn đàn, làm nức lòng công chúng bạn đọc. Văn đàn đi vào chiều sâu hơn, vững chắc hơn sau đó với Những ngày thường đã cháy lên (Xuân Cang) Nhìn dưới mặt trời (Nguyễn Kiên). Chim én bay (Nguyễn Trí Huân) Đi về nơi hoang dã (Nhật Tuấn) Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) Bến không chồng (Dương Hướng) Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường) Người đưa đường thọt chân (Bùi Việt Sỹ)…Chúng tôi tự hào về họ, như bạn đọc Trung Quốc tự hào về Mạc Ngôn, Lý Nhuệ, Giả Bình Ao và mới đây là Diêm Liên Khoa.

Được chuẩn bị kỹ hơn, do đó mà lùi lại sau một nhịp, hàng loạt các nhà thơ trẻ xuất hiện cùng với thi pháp thơ khác trước, ngồn ngộn sức sống và biên độ rộng mở: Y Phương, Dương Thuấn, Irasara, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đặng Huy Giang, Trần Quang Đạo, Trần Quang Quý, Trần Anh Thái… Họ hừng hực khí thế, có thể họ không có được thi đàn huyên náo, rầm rộ của công chúng như thời thơ Mới 1932 – 1942; nhưng tổng nội lực của họ là khó nói hơn thua. Họ kế thừa ý thức cách tân thi pháp của thơ Mới nhưng khước từ làm cái đuôi lộng lẫy của nó.

Khi Đổi mới, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng, bên cạnh cuộc suy thoái kinh tế mà mọi người tưởng như không còn gì đáng kể/ đáng lo lắng hơn lại phải đối mặt với vấn nạn suy thoái văn hóa và xói mòn nhân tính. Đây là kiểu nhân tính xói mòn do ngâm lâu trong bệnh thành tích, dối dả; do túng đói tích tụ quá lâu mà thành:

Chúng ta bị cái chết gạt về một phía

Bị cái hư danh gạt về một phía

Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười

Vừa bắt gặp nụ cười

Thì lại nghe tiếng cuốc. [Nghe tiếng cuốc kêu, Hữu Thỉnh]

Mọi khái niệm thiêng liêng, mọi tình nghĩa tưởng như bền chặt. Nhưng:

Cơn lốc đen đánh úp lá bàng

Tôi cảm thấy mùa thu đang mất máu

Còn một chút hoa dong riềng cuối dậu

Sợ một chiều sương muối đến mang đi [Trường ca Biển, Hữu Thỉnh]

Hữu Thỉnh có cả chùm thơ hay về nhân tính trong cơn bão: Hỏi, Cây đổ về nơi không có vết rìu, Buổi sáng thức dậy… Nhưng các nhà thơ thế hệ sau Hữu Thỉnh thì tiên cảm thấy đằng sau tai họa xói mòn nhân tính còn một ẩn họa kép; chúng lừ lừ như cơn bão, càng vào sâu thị trường, càng trở nên một hiểm họa thách thức sống còn. Cái thân thể nhân tính đang gày mòn, yếu nhược kia bị sức mạnh của đồng tiền, của các đổi thay giá trị quật cho tơi tả, làm sao để nó khả dĩ gánh vác được sự nghiệp dân chủ, tự do?

Thời gian rạn và không gian vỡ

Cả hai cùng nín thở

Thoắt thực thoắt hư thoắt có thoắt không

Em xoay xở làm sao mà hoa trắng nhị vàng [Trước sen, Đặng Huy Giang]

Nguyễn Quang Thiều đi cùng, hàng cuối với thập loại chúng sinh để nhận ra một thua cuộc nhức nhối, bất công và cả bất nghĩa nữa:

Họ lặng lẽ đi như đội quân thất trận

Cán dậm chúi xuống mặt đường… những nòng súng hết đạn

Những tấm áo rách sặc mùi bùn phơi trong lòng dậm

như cờ ngày việc làng rã đám

Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân chương [Trên đại lộ]

Xin hãy đọc bài Câu hỏi cuối ngày, để nhớ câu triết gia Nga Vladimir Soloviev [1853 – 1900] đã nói, với một số cộng đồng, tự do nghĩa là tự do chết đói; ở đây là bất hạnh trong thị trường:

Các cô gái buôn chuyến đang nghoẹo đầu ngủ

Tóc tai áo quần sặc mùi cá khô

Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia?

Và tôi lại nhói lên câu hỏi

Rằng nếu tôi lấy họ

Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Vâng, những đổi thay đang làm các giá trị đột ngột thay đổi, nhưng cũng làm cho các nhà văn kịp đi cùng đổi thay bằng cái bất biến là tự do kịp lớn lên cùng sự vật thời thế. Đổi mới là thước đo, là thách thức đối với các nhà văn, cấp đai đẳng cho những ai đứng vào dân chủ, nhân dân và gạt những nhà văn còn lại gạt sang thị trường - danh lợi.

Nhưng đổi thay đến độ bắn tên lửa hành trình vào hòa bình của nhân loại thì lại đặt các nhà văn trước một thách thức mới. Oái oăm thay, cả Nga lẫn Ukraine lại đều là bạn của Việt Nam; có nói không và nói sao khi bạn bè hành xử sai trái? Nhưng với riêng cái ác thì không thể không nói vì im lặng ở đây là đồng lõa. Nhà thơ Nguyễn Đình Minh đã cất lời nghiêm khắc:

Văn hóa của nghìn năm chỉ sau một đêm

Biến thành miền hoang phế

Sau tiếng gầm của con thú chiến tranh

[…] Âm thầm tiếng niềm tin sụp đổ

Máu ròng ròng

Trên nhãn mác văn minh. [Thời thiếu lửa thừa bom]

Thơ còn phải chỉ ra những định kiến hẹp hòi là một trong các nguyên nhân dẫn đến cái ác. Cây sồi gần 200 năm tuổi của văn hào Nga Ivan Turgenev bị cấm tham dự cuộc thi “Cây của năm” ở châu Âu và Liên đoàn mèo quốc tế cấm mèo nuôi ở Nga được đăng ký trong sổ phả hệ của tổ chức này. Trong bài Cuộc chiến thời văn minh, Nguyễn Đình Minh viết:

Thêm cả chú mèo và cây sồi làm đích ngắm

Dưới những tòa tháp vùng kinh đô ánh sáng

Biết ai tủi hổ bẽ bàng?

Câu thơ hay gợi nhớ những câu thơ hay khác. Trong trường ca Khúc hát người anh hùng (1973) Trần Đăng Khoa mô tả vết hằn bàn tay của đồn Coóc tát cụ Đình:

Mắt bỗng thoáng cái gì như là làn bụi

Hai má dần hằn nổi

Những ngón tay dài và thon

Vết những ngón tay tụ lại tím bầm

Hình dạng giống bản đồ nước Pháp

Người Pháp, nước Pháp có “tủi hổ bẽ bàng” chăng trước hành vi sỉ nhục mình của chính những đứa con, như Coóc năm xưa, như cái hội nhân danh tôn vinh cây xanh, tôn vinh mèo kia lại đi bắt nạt đến cả cây cả mèo? Tôi không biết, nhưng tôi chắc những câu thơ ấy xứng đáng có mặt trong túi khôn nhân loại, như các câu thơ của bậc tiền bối Nguyễn Du vừa dẫn ở đầu bài.