Xem thơ ca là “nơi cư trú của tình yêu”, tác giả Huỳnh
Như Phương dành hẳn một nửa số bài trong tập sách “Hồi âm từ phương Nam” để
trình bày những cảm nhận của mình về thơ. Từ đó, ta thấy hiển lộ một chân dung
Huỳnh Như Phương
HỒI ÂM TỪ PHƯƠNG NAM ĐỂ HIỂU TRONG NGƯỜI CÓ TA
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Đọc 36 tiểu luận trong cuốn sách "Hồi âm từ
phương Nam" của nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương, ngẫm lại tiêu đề của phần
2 trong cuốn sách “trong người có ta”, tôi nghĩ đến một quy luật trong mỹ học
tiếp nhận: khi bạn đọc một tác phẩm văn chương, không phải bạn đang khám phá
tâm hồn tác giả, mà bạn đang khám phá chính tâm hồn mình.
Quả thật như thế. “Trong người có ta” nghĩa là trong
hơn 40 gương mặt văn chương của "Hồi âm từ phương Nam", ta thấy hiện
hữu một gương mặt Huỳnh Như Phương thuỷ chung với văn chương suốt hơn nửa thế kỷ;
trong hơn 40 tâm hồn đa đoan với văn chương được tác giả soi chiếu, ta nhận ra
một tâm hồn mẫn cảm của Huỳnh Như Phương. Trong hơn 40 phong cách sáng tác đa
kiểu dạng, ta nhận ra tính cách, phong cách bút mực đầy tinh tế, sắc sảo, khoan
hoà nhưng thẳng thắn và kiên định của Huỳnh Như Phương. Đó là phong cách giàu cảm
xúc, trí tuệ, bút lực và giàu tấm lòng của người làm công việc phê bình.
Xem thơ ca là “nơi cư trú của tình yêu”, tác giả dành
hẳn một nửa số bài trong tập sách để trình bày những cảm nhận của mình về thơ.
Từ đó, ta thấy hiển lộ một chân dung Huỳnh Như Phương- người yêu thơ ca từ thuở
hoa niên cho đến tuổi xế chiều và một Huỳnh Như Phương- nhà phê bình, lý luận về
thơ đầy mẫn cảm và sắc sảo.
Sự đĩnh đạc của ngòi bút Huỳnh Như Phương được xác lập
từ những nhận định mang tính phát hiện và mang tầm lý luận về thơ: “Sáng tạo
cũng là một con đường bất tận; người làm thơ là người đi đường không mỏi. Đặt cột
mốc ở vị trí thời gian nào, có vượt qua được không, vượt qua rồi lại hiện thêm
dốc cao hay thác sâu. Không biết. Chỉ biết thơ như chim trời, như mũi tên, yếu
tính của nó là bay, bay hoài không chỉ định”; “Cũng như ranh giới giữa hôm kia
– hôm qua – hôm nay và hôm sau, ranh giới giữa tôi và không tôi, giữa bản văn
bên trong và bản văn bên ngoài… có khi phân định, có khi mờ nhoè, có khi tan biến.
Thơ mãi mãi là sự ngập ngừng, lưỡng lự khi phải chọn một thời gian, một từ ngữ,
một ảnh tượng, một tâm thế”; “Có tập thơ đến với ta như một người tình xa lạ,
ta đọc nó như khám phá, chinh phục một đỉnh núi cao đầy hào hứng, ngoạn mục
nhưng cũng lắm khi cảm thấy mệt nhoài. Lại có tập thơ đến với ta như một người
tình cũ, tuy lâu ngày gặp lại, nhưng vẫn ẩn hiện những nét gần gũi, thân quen,
ta đọc nó như cùng dạo bước dọc theo những con đường, bờ sông kỷ niệm, và trên
từng chặng nhàn du, ta cũng như gặp lại chính tuổi trẻ mình”…
Trong phê bình văn xuôi và phê bình của phê bình hoặc
bàn về chuyện dạy học văn, Huỳnh Như Phương cũng đưa ra nhiều nhận định sâu sắc
và chí lý: "Nghệ thuật nói lên phẩm hạnh của nhà văn. Thậm chí, nghệ thuật
cũng chính là phẩm hạnh, bởi đạo đức của nghề văn chủ yếu được tìm thấy trong
chất lượng nghệ thuật và tài nghệ thuyết phục người đọc”; “Văn học là lĩnh vực
kiên quyết không để thân phận con người biến thành một con số. Văn học là nụ cười,
là nước mắt, là niềm hân hoan, là nỗi thống khổ, không có con số nào “mã hoá”
được điều đó”.
Đặc biệt, đặt trong bối cảnh đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông 2018 với nhiều tranh luận về môn Ngữ văn, đúc kết sau của nhà
giáo – nhà phê bình Huỳnh Như Phương càng khiến chúng ta lưu tâm: Mục đích cuối
cùng của môn văn ở trường phổ thông “không phải là dạy người học hiểu biết kiến
thức văn học, để thuộc làu lịch sử văn học hay các mệnh đề lý luận như thuộc
các định luật vật lý hay định lý toán học. Môn văn ở trường phổ thông gánh sứ mạng
bồi dưỡng cho học sinh tình thương yêu, lòng trắc ẩn, sự ăn năn, niềm rung động
trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, sự nhạy cảm với nỗi cô đơn cùng với
lòng khát khao được giao cảm và hoà hợp”.
Trong "Hồi âm từ phương Nam", tác giả Huỳnh
Như Phương còn thể hiện một phẩm hạnh phê bình đáng trân trọng. Đó là khi ông
thẳng thắn chỉ ra nét bại bút của người sáng tác: “Tiểu thuyết Võ Hồng… thiên về
miêu tả sự kiện hơn là khắc hoạ tính cách… Khi thể hiện những tình huống gay cấn,
văn Võ Hồng không giữ được vẻ mềm mại, uyển chuyển vốn có”. Là khi ông bày tỏ ý
kiến không đồng tình với những cây bút mà mình mến mộ khi họ cả tin và dễ dãi đến
mức “hào phóng” khen tặng những người, những tác phẩm không đúng với giá trị thực;
hoặc họ cực đoan phê phán đến mức “không thấu tình đạt lý, nhất là khi chưa bao
quát toàn diện và thấu đáo những tình thế của người cầm bút”.
Huỳnh Như Phương cho rằng: “Kinh nghiệm cảm thụ nghệ thuật có tính riêng tư và đôi khi “bảo thủ” một cách kỳ lạ”. Vậy mà, bằng cảm thụ tinh tế, phát hiện mới mẻ, nhận định xác đáng, chứng lý thuyết phục, ông đã khiến người đọc đồng tình với sự cảm thụ “riêng tư” và đôi khi “bảo thủ” của mình. Bởi vì, “khi cái tôi đi đến cùng con đường của nó, nó sẽ được những cái tôi khác đón chào nơi bến bờ của sáng tạo”. Ông đã viết như thế, đã tin như thế; đến lượt mình, tôi cũng tán thành với ông, bởi tôi nhận thấy qua cuốn sách này, “trong người có ta”. Tôi tin rằng, bạn đọc khác cũng vậy!