Họ chứng minh cho xã hội Việt thời đó còn nặng tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” rằng phụ nữ có đủ tài năng để có thể đảm đương những công
việc lớn trong xã hội.
NHỮNG PHỤ NỮ ĐỞM LƯỢC TRONG LÀNG BÁO SÀI GÒN TRƯỚC
1945
PHẠM CÔNG LUẬN
Trong năm 2023, Google Doodle đã vinh danh bà Sương
Nguyệt Anh nhân 105 năm ngày phát hành số đầu tiên của tờ báo Nữ Giới Chung
(1918-2023). Xã hội được nhắc nhớ đến một phụ nữ tài giỏi của miền Nam, được
thân phụ là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu dạy dỗ từ nhỏ mà trở thành nữ Chủ báo khá
lừng lẫy của làng báo Nam kỳ thời trước năm 1945.
Tuy nhiên, sự kiện một phụ nữ đứng đầu, giữ vai trò
quyết định sự thành bại của một tờ báo thời kỳ đó không phải là duy nhất. Cho đến
khi bà Sương Nguyệt Anh mất năm 1922, ngay sau đó đã kịp xuất hiện những ngôi
sao khác trong làng báo Sài Gòn đều là phụ nữ.
BÀI BÁO GÂY BẤT NGỜ
Năm 1940, báo Trung Bắc Tân Văn số 18 ra ngày 30 tháng
sáu 1940 có một bài phóng sự ngắn của tác giả Văn Lang gây chú ý trong độc giả
miền Bắc, bài “Mấy bà quản lý nhà báo trong Nam”. Bài báo được quan tâm vì
trong tình hình xứ Việt còn đề cao vị trí của người đàn ông trong xã hội, phụ nữ
miền Nam đã thể hiện được vai trò và bản lãnh của mình trong nhiều hoạt động, kể
cả trong giới báo chí thời đó là nghề chuyên môn luôn theo sát thời sự xã hội
và tác động sâu sắc đến mọi tầng lớp.
Tác giả Văn Lang viết: “Hôm đầu năm nay nhân dịp vào
Sài Gòn cổ động cho tuần báo “Trung Bắc Chủ nhật”, tôi được nhận thấy làng báo
trong Nam có một cái ưu điểm, một cái đặc sắc mà làng báo Bắc ta đành phải chịu
thua.
Ấy là việc quản lý nhà báo phần nhiều ở trong tay đàn
bà”.
Có lẽ tác giả hơi bất ngờ khi phát hiện điều này. Tiếp
theo, ông cho rằng một cơ quan ngôn luận khi đã thiết lập xong, muốn được phát
đạt, vững bền, cả hai việc biên tập và quản lý cùng quan hệ sinh-tử như nhau. Nếu
các tờ báo in đẹp tin nhanh, có toàn bài hay của những tay bút cứng nhưng người
làm quản lý không thạo nghề, không biết cách trông coi quán xuyến, cứ để tháng
nào cũng lỗ vốn, thì tờ báo hay mấy cũng phải cụt vốn mang nợ mà chết. Cho nên
biên tập và quản lý cùng quan hệ mật thiết đến sự còn mất, thịnh suy của nhà
báo, Ông nhớ lại trường hợp nhiều nhà báo trước đó có vốn liếng hẳn hoi, chỉ vì
quản lý bất lực đến nỗi cạn cả tiền mua giấy.v.v… Ông kết luận: trách nhiệm người
quản lý nhà báo rắc rối khó khăn biết bao nhưng làng báo trong Nam phần nhiều lại
là đàn bà đóng vai tuồng ấy, làm công việc ấy giỏi hơn đàn ông, mới đáng phục.
Trong số đó, có những phụ nữ đởm lược sau đây trong
làng báo Sài Gòn trước năm 1945:
BÀ THẠNH THỊ MẬU, TỨC BÀ HỘI ĐỒNG NGUYỄN KIM ĐÍNH:
Từ 1923 đến 1926, ông Nguyễn Kim Đính xuất bản tờ Đông
Pháp Thời Báo, đứng về danh nghĩa, còn việc chi xuất tiền bạc, trông nom thầy
thợ nhà báo, nhà in, đều bởi một tay bà nữ quản lý Thạnh Thị Mậu là vợ của ông.
Cách quản lý của bà Đính thời đó khác xa với hình dung
các bà chủ báo. Ông Văn Lang cho là do lúc bấy giờ đã có tuổi và thuộc về phái
đàn bà xưa, cho nên chỗ làm việc và cách làm việc của bà cũng thế. Đại khái:
“Bà quản lý ta ngồi trên bộ ván, trước mặt có một ô trầu, một bình vôi, một chiếc
hòm bỏ tiền làm bằng gỗ và đóng khóa đồng, như hòm tiền kiểu xưa. Một phái viên
đi cổ động ở Lục tỉnh về nạp tiền, một nhà buôn đến trả tiền quảng cáo hay một
độc giả tới đóng tiền mua báo đã có viên thư ký rồi đưa trình bà quản lý ta ký
tên và nhận tiền. Tất cả chữ nghĩa của bà đã biết, chỉ gói lại có một chữ ký
tên “Mậu” mà bà tập hết mấy hôm. Nhưng chữ tên ký ấy rất có quan hệ với nhà báo
và có tín dụng từ một đồng cho đến hàng nghìn, hàng vạn”.
Điều độc đáo, theo tác giả là bà không… biết chữ,
nhưng bà biết thưởng văn và rất chú ý đến nội dung tờ báo của bà thuở ấy chuyên
trọng về nghị luận hơn là tin tức. Mỗi kỳ báo, viên thư ký phải đọc bài nghị luận
cho bà nghe và bình phẩm hay dở. Với chủ bút và trợ bút, bà lập lệ cứ mỗi một
trăm tờ báo in tăng lên thì lương được gia thêm bao nhiêu. Tức thị hôm nào báo
xuống, lương cũng phải xuống. Lúc Phan Chu Trinh tiên sinh ở bên Tây về, báo
Đ.P.T.B. được dịp xuất bản đến 13.000. Lúc ấy bà trả tiền bộ biên tập có hơi
xuýt xoa. Tài nhất là với bà, nhà in không thể phung phí một tờ giấy, trẻ con
bán báo không thể ăn gian xu nào, mà quảng cáo nào trả tiền hay chưa, bà đều
ghi nhớ trong trí.
Mục “Chị em không nhờ chồng” (báo Phụ Nữ Tân Văn số
223, ra ngày 2 tháng 11 năm 1933) tác giả ký tên là V.A cũng có bài viết về nữ
nhân nổi tiếng này. Bài báo cho biết ban đầu cách buôn bán của bà là theo kiểu
truyền thống: buôn thuyền, bán chợ đi Đông về Tây. Bà mua sản vật trong xứ, đem
bán từ làng này sang làng khác mà bán, lời nhiều nhất là bán cau.
Lúc Nam Kỳ nổi lên phong trào tẩy chay việc buôn bán độc
quyền của người Hoa năm 1918, có một tổ chức lập ra, tạm gọi là “Hội Khuyến
thương” do ông Nguyễn Phú Khai đứng đầu, để khuyến khích đồng bào Việt tích cực
làm ăn buôn bán trong các ngành nghề, từ nghề bán mì bán cháo, bán gạo, củi, thịt
heo. Bà Thạnh Thị Mậu muốn giúp công cuộc này thành công nên tự xuất vốn riêng
cùng người nhà đảm nhiệm việc buôn bán ở chợ Bà Chiểu, bán gạo, nước mắm và thịt
heo.
Báo Phụ Nữ Tân Văn lúc đó đã ca ngợi bà như là một phụ
nữ vợ viên chức làm cho người Pháp đầu tiên đi bán thịt heo, không chỉ vì ham
làm ăn mà còn vì tham gia phong trào mang ý nghĩa khuyến khích người Việt tham
gia thương trường lâu nay họ bỏ bê. Bà cạnh tranh giỏi nên người Hoa không ưa
bà. Bà cạnh tranh với họ hơn một năm trong khi nhiều người bán từ ban đầu bỏ cuộc.
Về sau, khi ông Kim Đính làm tờ Đông Pháp Thời Báo và mở nhà in, bà ra giúp chồng
để trông nom việc phát hành báo và thợ thầy nhà in. Bà vốn là người cần kiệm tảo
tần, tuy làm bà chủ và là bà Hội đồng, bà sống tiết kiệm, không khoe khoang
danh vọng với ai. Tính cách ấy khiến bà trông nom nhà in và tờ báo thuận lợi được
một thời gian. Sau vài năm, công việc ngày càng khó khăn. Ông vỡ nợ. Bà lấy
danh nghĩa riêng mà đứng tên nhà in, gánh lấy nợ nần. Rồi ông Đính về lập một
nhà in khác ở Gia Định, rồi lại nợ nần, bà lại gánh tiếp nợ nần và công việc của
chồng.
Đến thời kỳ khủng hỏang kinh tế khó khăn mà nhà in của
bà vẫn vững vàng.
BÀ NGUYỄN ĐỨC NHUẬN, CHỦ BÁO PHỤ NỮ TÂN VĂN:
Bà là tay quản lý nhà báo xuất sắc, còn thêm viết bài
mỗi tuần và có ít nhiều sáng kiến hay trong việc cổ động cho tờ báo. Báo này đã
lập ra học bổng chu cấp được hai người học trò nghèo sang học bên Pháp trong mấy
năm, một người đỗ kỹ sư canh nông và một người đỗ cử nhân khoa học.
BÀ TRẦN THIỆN QUÝ LÀM QUẢN LÝ NHẬT BÁO TRUNG LẬP:
Bà cũng tỏ ra là một người khéo nắm giữ một tờ báo lớn.
Nữ quản lý này chẳng những trông coi công việc ở nhà báo mà thôi mà còn thường
đến các hãng của người Pháp để xin quảng cáo, đi giao thiệp với nhà in của người
Pháp. Nhiều khi nhà báo cần gấp năm bảy trăm hay một ngàn đồng tiền thời đó để
trang trải tiền giấy và tiền in, tưởng đâu tình thế nguy ngập như sợi chỉ treo
chuông mà bà nữ quản lý này vẫn xoay xở được.
BÀ PHAN VĂN THIẾT, BỐN NĂM KẾ TIẾP QUẢN LÝ BA TỜ TUẦN
BÁO CÓ TIẾNG LÀ VIỆT DÂN, THẾ GIỚI VÀ TÂN VĂN.
Trong khi đức phu quân của bà chỉ ngồi trên gác viết
bài, nữ quản lý này ở dưới tòa báo, làm việc sổ sách, thơ từ, chi thu tiền bạc,
mỗi ngày hai buổi, rất nhanh nhẹn và mẫn cán. Từ nhà buôn, bạn đọc cho tới đại
lý, phái viên, nhất thiết giao dịch với bà quản lý, chớ không mấy khi gặp mặt
ông chủ báo bao giờ. Mỗi tờ báo bà làm quản lý đều in từ 5.000 đến 10.000 mỗi
tuần, với số xuất bản như thế, công việc của người quản lý không phải là chuyện
thảnh thơi nhẹ nhàng.
BÀ BÚT TRÀ, QUẢN LÝ NHẬT BÁO SÀI GÒN:
Tác giả Văn Lang cho rằng những ai biết tình hình báo
giới Nam Kỳ, đều phải ngợi khen bà Bút Trà, quản lý nhật báo Sài Gòn, được xem
là tay quản lý đởm lược nhất và khéo kinh doanh nhất.
Tờ nhật báo Sài Gòn xuất hiện từ đầu năm 1933, với vốn
ban đầu độ vài ngàn đồng, cho tới năm 1940 đã đáng giá đến mười vạn và nhiều
máy móc, khí cụ nhà in. Có thể nói tờ báo này đứng vào hàng lớn nhất, vững nhất
ở Nam Kỳ, tất cả nhờ một tay bà nữ quản lý Bút Trà gây dựng, giữ gìn, bù đắp, mở
mang.
Văn Lang viết: “Ai tới thăm nhà báo Sài Gòn, bà tiếp
kiến và chuyện trò nói năng rất thạo. Ai tới để lời rao trong báo, chính bà định
giá. Ai gọi điện thoại hỏi han việc gì, trong mười lần đến tám chín lần chắc chắn
gặp bà ở đầu giây. Mỗi ngày có hàng trăm thơ từ gửi về nhà báo một mình bà mở
xem trước hết rồi phân phát việc nào cho người chuyên trách ấy. bà ký giao kèo
với các công ty bán giấy. Nội nhà in cần dùng món gì hay thầy thợ muốn hỏi chuyện
gì, cứ trực tiếp nơi bà. Tóm lại, bà chủ trương nhất thiết, quán xuyến nhất thiết.
Có thể nói ở nhà báo Saigon, chính bà mới thật là tổng lý, lại kiêm luôn cả ba
chức sự nội vụ tổng trưởng, tài chánh tổng trưởng và ngoại giao tổng trưởng;
ông chủ báo Bút Trà chỉ như một vị công sứ hay đại sứ do bộ ngoại giao ủy đi
giao thiệp ở bên ngoài.
Cho đến việc biên tập, cách sắp đặt và các bài vở
trong số báo mỗi ngày, bà cũng lưu ý kiểm soát được nữa mới tài. Đêm nào cũng
thế, trước khi báo sắp lên máy, thợ phải vô một bản đưa trình bà quản lý xem sự
sắp đặt thế có được không, hay tin nào nên bỏ, lời rao nào còn thiếu. Những tân
văn thời sự của thông tin viên các tỉnh gửi về, bà quản lý xem và quyết định
cái nào đăng được cái nào không. Tin nào chưa được bà quản lý tiên kiểm, thì
nhân viên trong bộ biên tập phải trình hỏi ý kiến. Tôi được nghe một ông bạn
trong Nam thuật ại rằng: trong khi đang ngồi đàm đạo với một bà quản lý, một
ông trợ bút cầm đến hai ba tờ giấy đưa bà xem và hỏi:
- Thưa chị, cái tin này chị có cho đăng không?
Vì trong nhà báo này, nhân viên biên tập đều quý mến
và kính nể bà quản lý, gọi bà bằng chị. Bà gọi trở lại bằng thầy hay bằng anh.
Thường khi bà trao ý kiến này kia cho bộ biên tập viết bài không phải là sự lạ”.
Bà Bút Trà đưa tờ báo vượt quá mấy năm đầu có đôi lúc
bị khủng hoảng tài chính khủng hoảng suýt ngã ngựa, nhưng nhờ một tay bà chống
giữ, chuyển nguy ra an, đổi suy làm thịnh, đến lúc đó đã rất vững vàng.
HỌ CHỨNG MINH ĐƯỢC CHÍNH MÌNH
Lời cuối, tác giả viết: “Chắc hẳn chị em Bắc Hà ta phải
chịu mình thua kém phụ nữ phương Nam về tài kinh doanh một tờ báo. Làng báo ta
ngoài này tuy cũng có một vài bạn phụ nữ đứng quản lý một vài tờ báo nhưng chỉ
coi đại thể bề ngoài hoặc giúp việc tòa soạn, thử hỏi đã có một bà nào, cô nào
đảm đương nổi vận mạng lý tài của một nhà báo như mấy bà nữ quản lý kể chuyện
trên chưa?”.
Đã có một giai đoạn, làng báo Sài Gòn tự hào vì đã có những nữ tướng như vậy. Họ chứng minh cho xã hội Việt thời đó còn nặng tư tưởng “trọng nam khinh nữ” rằng phụ nữ có đủ tài năng để có thể đảm đương những công việc lớn trong xã hội.