Nhà phê bình Khuất Bình Nguyên bày tỏ: Người đọc bâng
khuâng nhận ra rằng một bài thơ nhỏ thôi lại có một thế giới nhân sinh đang mở
ra để con người trào lên những băn khoăn, khổ đau và ước vọng của cuộc đời vốn
dĩ không phải thật giản đơn này.
KHOẢNG LẶNG CỦA THI CA
KHUẤT BÌNH NGUYÊN
Thi sĩ Chế Lan Viên hiện vẫn còn là bí mật của
thời đại chúng ta và trong thế kỷ 20 ông là người theo đuổi nhiều nhất suy nghĩ
về thơ và nghệ thuật làm thơ. Có lần ông viết: “Đã
đốt lửa lên phải thắp sáng một cái gì/… Bài thơ anh làm, anh làm nửa mà thôi/ Còn
một nửa để mùa thu làm lấy”. Lần khác ông tâm sự: “Câu thơ nằm ở giữa bể sóng
không yên/ Và hạt muối chói ngời/ Giữa hai mặt đối lập và thống nhất kia chuếnh
choáng”. Lại có lần khi viết về Long Thành cầm giả ca, Chế Lan Viên nhắn nhủ:
“Bao nhiêu người cho cô vàng chỉ người ấy cho sự im lặng và giọt lệ”.
Điều mà Chế Lan Viên gọi là đốt lửa lên thắp sáng một
cái gì, một nửa bài thơ để mùa Thu làm lấy, Thơ nằm ở giữa bể sóng không yên và
hạt muối chói ngời cũng như sự im lặng và giọt lệ của Nguyễn Du đã tặng người
hát rong ở Long Thành trong thơ ấy, tôi muốn gọi tên tất cả những điều đó bằng
tên gọi Khoảng
lặng của thi ca như là một thi pháp đặc trưng của thi ca. Xưa
và nay.
Thi
ca khác với văn xuôi mà có người gọi là bánh đúc bày sàng; Tiểu thuyết, truyện
ngắn thường kể câu chuyện càng chi tiết bao nhiêu càng tốt và đương nhiên là những
chi tiết chọn lọc. Thi ca không phải là câu chuyện kể có đầu có đuôi, thậm chí
cũng không thật câu nệ tính chính xác của sự kiện như là mơ hồ trong câu
thơ: “Mai chị lấy chồng, ở mãi Giang Đông, dưới làn
mây trắng, cách mấy con sông”. Không ai hỏi Hàn Mặc Tử chị ông lấy chồng ở làng
xã nào. Chả thế mà Âu Dương Tu nói rằng: Làm thơ mà tự mình chú thích xuất xứ, người xưa không hề làm thơ mà phải
chờ chú thích đã không phải là loại thơ hay.
Đã
có lúc thời thế kỷ 20, có người cổ xúy cho việc đưa nhiều chi tiết thực tế vào
thơ đã không được nhiều người làm thơ ủng hộ. Chủ trương đó cũng không mang lại
mấy thành tựu cho thơ. Thi ca, đặc biệt là thi ca lãng mạn không chủ trương phải
tuần tự kể hết sự việc cũng như giãi bày hết cảm xúc, giảng giải, thuyết giáo ý
tưởng thơ mà biết dừng lại để suy tưởng thơ nối tiếp, để siêu thực nối dài hiện
thực, để cái ngẫu nhiên phô diễn cái tất nhiên, để rung lên những ý tưởng và cảm
xúc thẩm mỹ, để thi ca vang vọng đến những miền bất tận của ý nghĩa, để chân ảo
chan hòa mở rộng các dòng thơ, để thi ca có những khoảng lặng kì lạ cho sự nối
dài của ý tưởng và cái đẹp.
Không
gì buồn bằng đọc xong một bài thơ thì mọi việc đã xong xuôi hẳn, thế gian chẳng
cần nghĩ ngợi một điều gì. Khoảng lặng chính là nơi để thi ca cất tiếng nói
không thành lời của mình cho thời đại và lịch sử những tượng đài tư tưởng và thẩm
mĩ, là nơi gặp gỡ của người làm thơ với độc giả bước theo lịch trình bất tận của
thời gian. Bởi thế thơ là nghệ thuật chưng cất kỳ diệu nhất dùng cái phi lý để
hiện hình cái có lý trong khoảng lặng rộng hơn chính tác phẩm thơ. Nó chăng dây
giữa cái bất biến và cái khả biến để chỉ ra sự trường tồn những giá trị chân
chính của con người.
Thơ Phương Đông từ cổ xưa coi ý tại ngôn ngoại là
một trong những đặc trưng lớn nhất của phép làm thơ. Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục và Vân Đài loại ngữ không
chỉ một lần nhấn mạnh điều đó. Vân Đài loại ngữ nói làm thơ có lục chí.
Hai trong sáu yêu cầu cơ bản đó là: Chí cận nhi ý viễn. Nghĩa là việc rất gần
mà ý xa. Và Chí
khổ nhi vô tích nghĩa là rất khắc khổ mà không hình tích. Khi bàn về
thơ Phương Đông, Lê Quý Đôn nhiệt thành ca ngợi ý tưởng này. Ông trích lời của
Tô Đông Pha, người đã viết nên câu thơ kỳ lạ để lại một khoảng lặng dài hơn một
nghìn năm nay Sao
cứ biệt ly thì trăng lại tròn bằng câu nói sau đây: ý hết mà lời dừng là
cái lời rất mực trong thiên hạ, lời dừng mà ý không tả hết lại càng hay tuyệt.
Trong Kiến Văn tiểu lục, Lê Quý Đôn rất tâm đắc với
câu trả lời “Thế nào là ý Phật” của một thiền sư cho vua Lê Dụ Tông (1679—1734)
rằng chim
nhạn bay trên không bóng nhạn in dưới nước, Nhạn không có ý để dấu vết lại, nước
không có ý giữ bóng nhạn lại làm gì. Nhạn và nước đâu có lên tiếng
về ý tưởng của mình. Đó cũng là một cách diễn tả khác về khoảng lặng trong thơ.
Liên quan đến khoảng lặng
trong thơ với truyền thống tự sự của thi ca Phương Đông. Vân Đài loại ngữ đã
đề cập đến thách thức và bản lĩnh của việc sử dụng thi pháp tự sự trong thơ. Làm thơ mà không sự
việc thì khó lắm. Sử dụng sự việc nhiều quá cũng khó lắm. Không sử dụng sự việc
thì khó lập ý. Sử dụng nhiều quá thì khó đưa lời . Nhận xét
này như là một góc nhìn khi bình giá thi ca trung đại và hiện đại Việt Nam.
Truyện nôm khuyết danh thế kỷ 18 như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa v.v…
là mảng văn học có nhiều thành tựu.
Tuy nhiên, người ta nói rằng truyện nôm khuyết danh
chú ý nhiều đến diễn biến câu chuyện có đầu có cuối, ít chú ý đến dư ba của ý
tưởng và cảm xúc làm nên những khoảng lặng trong thơ cộng với không thật dụng
công trong việc chau chuốt hình tượng và cảm xúc như Truyện Kiều nên đã hạn chế
sức lan tỏa văn chương của thể loại này.
Thế kỷ 20 được mùa trường ca. Xu hướng kết cấu của nhiều
trường ca hiện đại như Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Những người đi tới
biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Sư đoàn của
Nguyễn Đức Mậu, Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái… đã không dựa
vào câu chuyện cụ thể mà dựa vào trường cảm xúc và ý tưởng chủ đạo, tránh được
kể lể câu chuyện mà nói như Văn Tâm Diêu Long trong thiên 16 và 18 về
sử truyện và sử loại là đã chọn được cái chốt chỉ dài 1 tấc mà đóng mở được cả
cửa lớn, tạo nên những khoảng lặng cần thiết của hình tượng và cảm xúc… mang lại
cho thể loại này những tác phẩm thơ có tầm vóc. Một số trường ca tiếp nối việc
dựa vào câu chuyện như Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn đã không
quá câu nệ vào kể chuyện, liệt kê sự việc… mà có những điểm lặng để cảm xúc và
ý tưởng lắng đọng làm cho trường ca có sức liên tưởng và lôi cuốn.
Cùng với trường ca, Thơ
văn xuôi cũng là một con đường mở rộng diện bao quát của thơ và câu thơ. Tuy
nhiên, ít có bài thơ và tập thơ văn xuôi có thành tựu, mặc dù thơ văn xuôi hoàn
toàn không cần dựa vào một cốt chuyện cụ thể để phải bị ràng buộc việc kể chuyện.
Sở dĩ chưa thành công vì một trong nhiều nguyên nhân là một số tác phẩm thơ văn
xuôi để tràn ra nhiều mảng cảm xúc, bình giá về nhiều sự kiện, không tiết chế để
cảm xúc xô về nhiều phía làm cho chủ đề bị pha loãng ít có khoảng lặng để dư ba
về ý tưởng và cảm xúc, khiến cho người đọc đôi khi mệt mỏi, không còn khoảng trống
cần thiết cùng nghĩ cùng cảm với nhà thơ.
Có người nói nhà thơ sợ thế giới cộng sinh không hiểu
mình nên cố gắng giãi bày làm cho mặt trống thơ trùng xuống nên thiếu tiếng
vang xa. Thơ văn xuôi nên chăng cần chiêm nghiệm tính nghiêm cẩn của một bài
thơ ngũ ngôn 8 câu, cả thảy chỉ có 40 chữ nhưng phải như bốn chục người hiền,
trong đó vướng phải một người lái buôn là không được.
Có lẽ con đường để tìm đến
khoảng lặng trong thơ đã được thể thơ ngắn nhất thế giới – Thơ Haiku đặt nhiều
kỳ vọng. Thơ Haiku trong tiếng Nhật bản chỉ có 3 dòng, 17 âm tiết. Trong khi một
chữ Nhật có nhiều âm tiết. Cho nên kết cấu 5 – 7 – 5 âm tiết thì số chữ còn ít
hơn. Bài thơ nổi tiếng Con ếch chỉ có 10 chữ 3 dòng 3 – 4 – 3.
Thơ Haiku tạo ra khoảng lặng của thi ca để làm nên tương tác giữa người đọc với
thi sỹ. Cái quyết định của Thơ Haiku là ý tưởng sâu sắc chìm trong 3 dòng thơ
ngắn. Điều mà Chế Lan Viên gọi là phải thắp sáng một cái gì.
Thơ Haiku của Việt Nam là một thử nghiệm nhưng thành tựu
thu được còn hạn chế. Một số bài thơ ý tưởng chưa rõ rệt, có khi lại chưa sâu sắc,
thậm chí đôi khi rơi xuống tầm thường. Lục bát 16 chữ vì tiếng Việt là tiếng một,
một chữ một âm tiết nên so với Haiku còn ít hơn một âm tiết mà ý tưởng thật sâu
sắc, nhạc điệu thật đằm thắm.
“Qua đình ngả nón trông
đình/ Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Nếu chuyển hai câu thơ 6-8
này sang Haiku quả là một công việc không phải dễ dàng.
Con đường đi tìm và tạo lập khoảng lặng trong thơ có lẽ
trước tiên thơ phải có ý tưởng sâu sắc chứa đựng một triết lý nhân sinh mang đậm
tính dân tộc và tính toàn nhân loại. Người làm thơ không phải bằng con đường giảng
giải triết lý đó bằng lời giống như nhà triết học mà thông qua hình tượng và cảm
xúc chọn lọc để làm sáng lên triết lý và ý tưởng. Cái khoảng lặng của thi ca
chính là ở chỗ đó. Và phải chăng đó chính là bản lĩnh của một nhà thơ?
Người ta nói rằng thời đại
AI, người máy với trí tuệ nhân tạo có thể làm thơ hay. Tôi không dám chắc điều
đó. Nhưng có lẽ phải trông cậy nhà thơ để thiết kế con chíp. Một trong những
con chíp đó là khoảng lặng của thi ca. Bản lĩnh của người làm thơ không phải chỉ
ở tầm cao tư tưởng và khái quát nghệ thuật mà cùng với việc đó biết loại bỏ những
chữ những câu thừa làm nên những tác phẩm thơ có dư ba. Sâu sắc về ý tưởng. Bay
bổng về cảm xúc. Khi kết thúc bài thơ người đọc thấy ngân lên những làn sóng của
siêu thực để trang thơ rộng hơn cuộc đời của chính nó.
Người đọc bâng khuâng nhận ra rằng một bài thơ nhỏ
thôi lại có một thế giới nhân sinh đang mở ra để con người trào lên những băn
khoăn, khổ đau và ước vọng của cuộc đời vốn dĩ không phải thật giản đơn này. Để
ít ra như Nguyễn Du than thở sau 200 năm hoặc lâu hơn nữa bài thơ làm ra còn đồng
vọng với người đọc mặc dù cuộc đời đã đổi thay rồi. Hình tượng và cảm xúc thơ tự
thân nó rộng hơn ý tưởng của người làm thơ là như vậy.
Cách đây hơn một
nghìn năm, một thiền sư nước Việt đã viết “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai”. Nhành mai ấy đã để lại một khoảng lặng thi ca từ thế kỷ
11 đến bây giờ. Hiện vẫn còn đang nở trước cửa hoàng thành Hà Nội. Cái khoảng lặng
ấy dù cách xa ngàn vạn dặm thời gian vẫn làm nên sự bất ngờ với người đọc bình
thản nhất.