Chỉ
cần nghe bấc trở mùa, ngó con trăng tròn tháng chạp, là mấy cái chợ nổi lại rộn
ràng như xuân căng tràn lên phận người thương hồ lấy sông làm nhà. Trong nhiều
cách ăn Tết của người Nam bộ, thì cái Tết thương hồ vẫn luôn là cái Tết đặc biệt
và độc đáo nhất.
TẾT THƯƠNG HỒ GIỮ HỒN CHÂU THỔ
TỐNG PHƯỚC BẢO
Chợ nổi thổi hồn Tết Nam bộ
Buôn có bạn, bán có phường, nên người miền
Tây cũng họp chợ trên sông theo từng cụm. Dần dà thời gian bồi đắp cho cái nghề
thương hồ long đong phần đời ruổi rong sóng nước này một bề dày lịch sử. Biến
thiên năm tháng phủ lên miệt Cửu Long những đổi thay theo thời hợp thế, chợ
truyền thống, siêu thị bắt đầu mọc lên nhưng kì thực, chợ nổi vẫn là một điều
gì đó ăm ắp trong kí ức của người miền Tây, khó thể phôi phai. Người bán, người
mua tìm đến chợ nổi như tìm lại cái thương tưởng xưa xa, nắm níu cái hồn quê kiểng.
Càng gần những ngày cạn chạp, những khúc
sông họp chợ càng đông đúc và rực rỡ sắc màu của mấy chiếc ghe bông tụ về. Xanh
đỏ tím vàng nhuộm cả khúc sông thành một quãng dài lung linh trong nắng mai non
dịu dàng. Ghe cặp mé sông, ghe đậu bến đợi. Khách trên bờ cũng có thể xuống ghe
lựa đồ. Khách từ các con kinh, rạch, khúc lóng nhỏ ở tận những vùng sâu cũng
tranh thủ buổi chợ sớm để kịp lựa những món ngon về ăn Tết.
Quê nội tôi ở An Giang, nơi có cái chợ nổi
lâu đời nức tiếng xứ Bảy núi này- Kinh Xáng Vịnh Tre. Tết quê rôm rả đâu từ những
ngày rằm tháng chạp rồi. Nội hay kêu một người bác thứ tám sáng sớm đã chạy ghe
máy đuôi tôm ra tận chợ nổi Kinh Xáng chỉ để lựa mấy chục hột vịt, hay quả dưa
hấu, có lúc là bông vạn thọ… Nhiều lần tôi cứ thắc mắc sao đi năm bảy bữa mà
mua hoài chưa đủ đồ ăn Tết, nội cứ cười tỉnh rụi nói chừng lớn lên tự khắc tôi
hiểu. Mãi sau này khi lớn lên chút nữa, quãng năm mười hai tuổi, tôi mới bắt đầu
ghiền mấy cái chợ nổi mỗi bận Tết nhứt. Cứ theo ghe nội đi miết, ngày hôm qua
đã đi, ngày hôm nay lại đòi, và dĩ nhiên ngày mai tôi vẫn ráng dậy từ sáng sớm
để theo ghe ra chợ nổi.
Một vùng sông nước dập dềnh những chiếc
ghe, rộn ràng tiếng nói cười, sắc màu hoa lá rực rỡ, bấy nhiêu đã thấy xuân rạo
rực trên mảnh đất miền Tây bạt ngàn sự hào sảng. Hào sảng cả trong cách buôn
bán của đời thương hồ. Tỷ như người miền Tây bán buôn nói một chục nhưng đâu phải
là mười. Một chục của dân thương hồ đa dạng theo món hàng. Như chục trứng gà
thì đúng mười trứng, nhưng chục cam có khi là 16 trái, chục dừa đôi lúc là 12
trái, chục quýt nhiều khi đến tận 14 trái… Cách bán bó thì thường tính cho rau,
hành, ngò; bán kí thường tính cho chanh, cho ớt, đường, tỏi… Nhiều lắm những
cách tính theo mỗi vùng, mỗi chợ nổi mà tôi đem thắc mắc về hỏi nội thì ngay cả
những người bám đất miền Tây sống cả phận đời như nội cũng chẳng thể biết. Ông
bà dạy tính sao thì cứ giữ cái nếp đó mà bán buôn.
Nếp bán thành lệ, dân thương hồ còn bán
theo kiểu thả "phao", đó là cách bán cho mối lái lấy về các chợ nhỏ họp
trên các con kinh, rạch, búng, hay khúc lóng của những ghe bẹo đến từ vùng sâu.
"Phao" cũng được thả tùy theo mặt hàng đang bán nhanh hay chậm. Thả
phao có nghĩa là số lượng cho không để mối lái lấy về bán nhỏ lẻ có thêm phần lời.
Như một kiểu khuyến mãi của dân thương hồ "lì xì" lẫn nhau. Thường
thì thả phao 1 chục, 1 kí cho đến 10 chục hay 10 kí mà mối lái phải mua đến con
số 100 chục hoặc 100 kí mới được hưởng phao. Dân thương hồ bám con nước mà sống,
nên giờ giấc thả phao sẽ độc đáo ở chỗ là canh nước lên nước xuống. Cứ nước
ròng là lúc thủy triều xuống thì phao sẽ thả, có khi nước bắt đầu lớn là thu
phao lại. Chợ Tết vì thế nó lại mang cái thú rất vui rổn rảng bởi tiếng rao thả
phao, thu phao của dân thương hồ. Ghe cứ vậy mà chạy xà quần của khúc sông. Tết
cứ vậy mà lòng vòng níu giữ hồn người châu thổ.
Dọc các tỉnh thành miền Tây Nam bộ, giờ
đếm trên đầu ngón tay cũng gần chục cái chợ nổi trứ danh như Cái Răng, Phong Điền
của Cần Thơ; Cái Bè của Tiền Giang; Long Xuyên của An Giang; Gành Hào của Cà
Mau; Trà Ôn của Vĩnh Long; Ngã Bảy của Hậu Giang; Ngã Năm của Sóc Trăng… những
cái chợ nổi như thổi hồn quê bản xứ lên Tết Nam bộ dẫu "đất chín rồng"
giờ cũng đã thay da đổi thịt ít nhiều theo chiều hiện đại hóa công nghiệp hóa.
Nhưng, chừng nào còn chợ nổi, chừng đó vẫn còn Tết quê đúng nghĩa nếp xưa lệ cũ
của thời tiền nhân mở cõi đất Phương Nam này.
Vẫn theo gió Tết tìm về
Cửu Long
Tôi nhớ có lần ngồi trên chiếc ghe nhỏ
xuôi về chợ nổi Cái Răng cùng những bạn văn đến từ đất Bắc, họ ngạc nhiên bởi
cách buôn bán thương hồ này. Ghe sát ghe, người bán người mua nhảy từ ghe này
sang ghe khác ngon ơ, hay đảo cả vòng chợ nổi toàn nghe rao chục mà mua lên thì
đếm hơn mười. Đặc biệt là mua thì có trả giá cũng không tài nào trả được, bởi
dân chợ nổi buôn bán sát giá, giá rẻ lấy từ vườn ra nên có trả cỡ nào cũng
không bán. Hay như tiếng dạ lời thưa của dân miền Tây ngọt xớt khiến chị nhà
thơ đất Bắc trầm trồ, sao mấy cô mấy chú lớn hơn mình mà một tiếng dạ hai tiếng
thưa. Kì thực đó là cái nếp giao thương thiệt thà chân chất của xứ này. Cái tiếng
dạ trong mua bán trao đổi của người miền Tây trăm năm nay vẫn cứ vậy. Nhưng,
cũng chính chị nhà thơ miền Tây thắc mắc một điều khiến cả đoàn hôm ấy lòng
mênh mông như sóng nước Cửu Long. Lấy ghe làm nhà vậy họ ăn Tết làm sao? Đó là
những ngày gần chạp, gió ngọt nước đồng, sóng nước cũng đã lao xao câu chuyện
sum vầy.
Tôi có cô bạn tên Hoài Thương ngày đó
cùng xóm, thời gian xuôi mỗi đứa mỗi ngã, tôi náu nương phận mình chốn thị
thành nhưng mỗi bận về quê vẫn hay tìm ra chợ nổi để ngồi cùng cô bạn. Hoài
Thương giờ theo nghề tía má cũng lênh đênh phận mình theo ghe bẹo sống đời
thương hồ. Mỗi năm ghe của Hoài Thương quay về chợ quê cũ để họp với ghe của
tía má bán buôn trên khúc sông đã nuôi mình khôn lớn. Cô bạn ngày ấy lấy anh chồng
tên Hận, ngày ngày ruổi rong từ sông Hậu đi hết cái chợ nổi này đến cái chợ nổi
kia để mưu sinh.
Xứ này đôi khi người ta đặt cái tên quê
trớt, chẳng cao sang, chẳng đẹp đẽ nhưng là cái tên thật thà theo cảm xúc. Hoài
Thương ra đời từ mối tình của tía má cũng là dân thương hồ ghe bẹo, rổ rá cáp lại
với nhau chứ đâu có cái đám cưới nào trầu cau mai mối. Hận là đứa con trong cuộc
tình chớp nhoáng của đời ghe bẹo. Má Hận đẻ ra khi người tình đã lui ghe đâu đó
trên chín nhánh sông đất châu thổ. Chín nhánh sông sao mà tìm được, nên cái tên
đem đặt cho con để nhắc nhớ một quãng đời trôi nổi.
Tôi nhớ lần mình về gặp cô bạn, cô bạn mừng
rơn dắt lên ghe giới thiệu chồng với tôi. Chiều Ba mươi Tết năm đó, tôi đón cái
Tết sum vầy ấm áp với đôi vợ chồng trẻ, cũng có bánh tét, cũng có củ kiệu, có
thịt kho hột vịt và những câu chuyện lênh đênh sóng nước đời thương hồ. Như những
cánh lục bình miên di trên trăm ngàn con sóng nước Cửu Long, đời thương hồ cũng
thế, khác chăng mỗi mùa Tết sẽ nghỉ ngơi độ chừng 8 ngày thôi, rồi lại ngay
mùng 8 Tết là cúng ghe, chấm mắt ghe, dong ghe rẽ sóng nước mà tiếp tục dập dềnh.
Lần đó tôi hỏi cô bạn sao không chịu lên
bờ, sống đời thương hồ rày đây mai đó ngó lại cũng long đong linh đinh mà thôi.
Cô bạn cười tươi rói, thương hồ riết rồi đâm quen, đâm thương cái nghề của
mình. Có người thương đất bám đất, có người thương sông bám sông. Đất này dạy
người Cửu Long biết trồng trọt chăn nuôi. Sông này cho người chín nhánh biết
chèo chống bán buôn. Chừng nào sông hết nước thì dân miền Tây mới hết sống đời
thương hồ. Cô bạn nói vậy rồi cười tỉnh rụi hát câu vọng cổ: "Dời chân bước
xuống ghe buôn. Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu".
Chiều Ba mươi Tết rót thứ rượu gạo miền
Tây làm tôi chếnh choáng say. Dân miền Tây cười tỉnh rụi, mà câu vọng cổ buồn
thiu. Nhưng, hai vợ chồng người bạn vẫn quả quyết, vọng cổ vui quá chừng, đời
thương hồ tự do, phóng khoáng và kiêu bạt. Trăm cái ghe thương hồ vẫn theo gió
Tết mà tìm về Cửu Long. Châu thổ này có bao giờ cạn dòng, nên ruổi rong thương
hồ vẫn cứ là những người đang giữ gìn một nét đẹp văn hóa dân tộc mà tôi cực kì
trân quý giữa buổi thời kim tiền xáo động này.