Thơ lục bát với niêm luật chặt chẽ nếu không có những tìm tòi khám phá về ngôn ngữ và sự tạo hình thấm đẫm hồn thơ ắt sẽ làm bạn đọc nản chí. Bùi Quảng Bạ đã vượt lên những khó khăn đó.
GỬI VÀO LỤC BÁT
TỪNG GIỌT TRẮNG TRONG
VƯƠNG TÂM
“Gửi
vào lục bát” là
tập thơ thứ sáu của nhà thơ Bùi Quảng Bạ, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Tôi khá bất ngờ với ý
tưởng rất bạo dạn của nhà thơ khi chọn in toàn bộ là thơ lục bát (gồm 55 bài).
Bởi lẽ nhịp điệu thể thơ lục bát thường mượt mà ngọt
ngào dễ làm người đọc cảm thấy đều đều khó tập trung. Hoặc giả tập thơ sẽ trở
nên đơn điệu nếu tác giả không có những dấu ấn gây sự bất ngờ qua mỗi bài thơ.
Nhưng điều lo lắng của tôi đã tan biến ngay từ khi tiếp xúc những bài thơ đầu
tiên.
Sự nổi bật của thơ Bùi Quảng Bạ là sự ngắn gọn vừa đủ
trọn một tứ thơ. Kèm theo đó anh có những khám phá nhất định khi tìm được những
hình ảnh hay ẩn dụ có chiều sâu tâm trạng. Tác giả đã bày tỏ nỗi lòng ấm áp và
thân thương qua những đề tài về quê hương, thế sự và tình yêu. Dường như thể loại
thơ lục bát đã giúp cho hồn thơ của tác giả càng sâu lắng hơn: “Lúng liếng là
lúng liếng ơi/ Ngượng ngùng tôi nhặt, nhưng rồi chẳng trao/ Đem về, giấu trong
chiêm bao/ Để đêm đêm đón em vào trong mơ”. Chỉ một khổ thơ ấy thôi, cái ảo mộng
“giấu trong chiêm bao” đã nhắn gửi cho tôi những câu thơ tài hoa đang ở phía
trước.
Những bài thơ xinh xắn chắt lọc trong ý tứ tập trung
đã làm nên nét đặc trưng trong tập thơ Gửi vào lục bát. Với đề tài nào nhà
thơ cũng sự thể hiện với cách bày tỏ có nét riêng biệt. Đề tài quê hương và mẹ
tạo nên cảm xúc sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm nỗi niềm ưu tư của mình. Đó là
những bài thơ người đọc được đón nhận những hình ảnh và cảm xúc khá bất ngờ.
Nếu trong “Gió
đồng”, tác giả vẽ
hình ảnh: “Đồng chiều trải rộng bên sông/ Bốn mùa gió thổi nhọc lòng sông quê”;
hay đó còn là “Lúa cùng em gánh trăng quê về làng” (Gặt lúa đêm); hoặc với ký ức
sâu nặng: “Mưa phùn theo mẹ lên bờ/ Trắng đồng chiêm trũng ngóng chờ lúa lên”
(Gió qua đời mẹ) thì
với “Rượu quê” nhà thơ lại lắng đọng trong tâm cảm: “Gian nan trĩu nặng bước đường/
Đắng cay men rượu ngọt hương lúa đồng/ Chắt chiu từng giọt trắng trong/ Rưng
rưng trong dạ nỗi lòng cố hương”.
Qua gần một nửa tập thơ tác giả luôn gieo vọng ước nặng
trĩu tâm hồn về quê hương. Mỗi bài thơ người đọc cảm thấy tác giả đau đáu với
tâm nguyện: “Trăm năm giữ một câu thề/ Ngàn năm giữ một lối về quê cha” (Đông Hồ
quê tôi).
Thơ lục bát với niêm luật chặt chẽ nếu không có những
tìm tòi khám phá về ngôn ngữ và sự tạo hình thấm đẫm hồn thơ ắt sẽ làm bạn đọc
nản chí. Bùi Quảng Bạ đã vượt lên những khó khăn đó. Ngay cả những nỗi niềm thế
sự nhân gian ngỡ như khó thể hiện nhưng tác giả đã có những góc nhìn độc đáo
qua hình tượng thơ. Thật khó thể quên được những không gian kỳ thú mà tác giả
đã ngất ngưởng: “Chia tay nhớ rượu San Lùng/ Nhớ người rót rượu bâng khuâng đường
về/ Men say níu cả chiều hè/ Buồn vui quyện lẫn tiếng ve lưng đèo” (Rượu San
Lùng). Và còn đó là những “Trăng cô đơn giữa ngàn sao/ Biển cô đơn những đêm
nào vắng trăng” (Trăng và biển).
Người đọc chắc
hẳn sẽ đồng cảm với tác giả khi viết trong nỗi buồn lắng đọng: “Thềm xưa chị
gói câu thề/ Chiếc khăn gửi lại vụng về tuổi xuân” (Thềm xưa). Thiên nhiên cũng
là một trường thi mà tác giả luôn đắm chìm trong tâm trạng thương cảm với nỗi đời
mong manh. Nào “Chớm thu”, “Thu muộn” hay “Thu đi”, hay “Gió đồng”, “Tiếng
mưa”, cùng với “Bãi cỏ lau” và “Hoa lục bình”… nhà thơ luôn khao khát “Tìm lại
giấc mơ” của mình khi anh viết: “Thời gian đi với dãi dầu/ Nửa đời gặp thuở ban
đầu ngày xưa/ Nghe như trời trở gió mùa/ Tôi ngồi tìm lại giấc mơ một mình” làm
người đọc xao xuyến: “Đêm qua hoa sữa nở đầy/ Lặng thầm hương cốm thoảng bay
xóm chùa/ Lội qua sương lạnh gió mưa/ Mây đi vồi vội giữa mùa gọi trăng” (Thu
muộn). Những câu thơ hay và đầy tâm trạng trầm mình trong thiên nhiên mà người
đọc cảm nhận ở tác giả những nét độc đáo.
Tác giả Bùi Quảng Bạ luôn có ý thức né tránh được sự
dàn trải mà luôn biết dừng đúng lúc khi tứ thơ đã đọng kết. Đôi khi anh buông lửng
gợi mở để người đọc cùng cảm nhận. Không ít bài có những khai phá trong việc
dùng dấu chấm, dấu phảy tạo nhịp mới. Anh đã viết trong bài Một
mình rằng: “Bồn chồn thung lũng Tình Yêu/ Một mình, một nửa, một chiều vắng
em” (2-2-3). Hoặc trong bài Trúc xinh nhịp điệu của hồn thơ cũng say
bởi những dấu phảy giữa câu 8 tạo nên hình ảnh rất ấn tượng: “Hội Lim giã bạn
cuối ngày/ Quai thao, guốc mộc, ngọt say cánh trầu” (2-2-4). Do vậy thơ anh thường
ngắn và truyền cảm.
Đặc biệt với đề tài thơ tình của Bùi Quảng Bạ đã đem lại
hiệu ứng thi cảm khá ấn tượng. Hơn nữa với nét thầm kín và nhu mì trong hình ảnh
đã làm nên duyên thơ trong anh. Nỗi niềm thầm kín được bày tỏ nhẹ nhàng: “Thơ
trao em vội đi rồi/ Tôi ngồi gỡ sợi tơ trời vấn vương” (Cảm nhận); hoặc lại có
khi dằn vặt kín bưng: “Còn duyên sao cứ hững hờ/ Hết duyên nỡ để vần thơ xé
lòng” (Tặng Thủy). Dần dần những cảm xúc trong thi nhân dâng trào. Hình ảnh mỗi
lúc một dữ dội hơn khi mộng ảo: “Cánh cò nghiêng cả cơn mưa/ Lao xao lá rụng cuối
mùa heo may/ Đưa em trở lại những ngày/ Đi trong ký ức ngập đầy bão giông” (Giấc
mơ trưa).
Đôi khi những ký ức xa xăm vẫn còn ám ảnh mà tác giả
đã trăn trở với những câu thơ: “Bến bờ ngày ấy còn đây/ Lòng thuyền rạn vỡ những
ngày chờ mong/ Tôi về trả nợ dòng sông/ Mượn thơ vá lại nỗi lòng thuyền em”
(Duyên nợ). Ở mảng thơ tình tác giả đã có những cảm xúc hướng nội với dĩ vãng
trôi qua đầy yêu thương. Thơ anh không có những nỗi buồn tê tái mà luôn ấm áp vỗ
về.
Bùi Quảng Bạ đã neo vào cảm xúc người đọc với những
câu thơ toát lên một tấm lòng nhân ái và bao dung. Với góc khuất trong khi “Tìm
lại giấc mơ” thơ anh luôn bật ra những hình ảnh đầy khắc khoải về nỗi đời và niềm
đau chia sẻ. Đây đó là sự nuối tiếc và đôi khi là nỗi buồn thương sự đời mà nhà
thơ đã trải qua. Tôi đã đồng hành cùng anh với tâm trạng khi chia sẻ với tư
cách công dân trong những bài thơ như Người đi tìm di họa chiến
tranh, Những con sóng, Người bán hàng rong; hay Đông Hồ quê
tôi, Nà Nưa và Đêm sông Hậu… Phải nói đây là những đề tài khó thể
hiện trong thơ lục bát, nhưng tác giả đã để lại những ám ảnh khi bày tỏ: “Linh
hồn vất vưởng trên cao/ Vô danh chẳng biết nhập vào nơi đâu/ Nỗi oan trần thế
dãi dầu/ Đắng cay làm ngọt, tủi sầu dạ mang” (Di họa chiến tranh).
Tác giả đã giải mã được tâm trạng ngỡ như cay đắng với
người chiến sĩ vô danh khi đi qua chiến tranh. Người đọc luôn luôn đồng cảm
cùng nhà thơ với những ưu tư đó. Đồng thời điểm mấu chốt sự lắng đọng về tình
yêu quê hương, tác giả đã lý giải: “Có quê hương mới nên người/ Thiếu hương quê
để cuộc đời chênh chao”.
Bùi Quảng Bạ thuyết phục bạn đọc qua những đề tài quen
thuộc cùng với nghệ thuật thể hiện tài hoa. Ngôn ngữ thơ anh giầu hình ảnh tràn
đầy năng lượng cảm xúc. Tác giả có những tìm tòi khám phá nhất định về hình tượng
tinh tế qua thể loại thơ lục bát. Tập thơ để lại những dư âm có nét sáng tạo mới
về nhịp điệu ngưng ngắt qua sự vận dụng chất liệu dân gian.
Người đọc tiếp nhận được hồn thơ Bùi Quảng Bạ chân tình nhưng không kém phần lãng mạn qua những ẩn dụ bất ngờ. Đặc biệt thơ anh còn thể hiện tính cộng đồng sâu sắc chứ không dừng lại ở sự mất mát hay nỗi cô đơn sầu muộn. Qua tập thơ tác giả muốn truyền cảm tới bạn đọc những góc khuất tâm cảm cùng nhịp điệu dịu dàng và thấm đẫm tình yêu cuộc sống./.