Khi mà một bộ phận những công chức văn hóa - những người lẽ ra phải đọc sách một cách ráo riết nhất - không, hoặc lười đọc sách, thì việc văn hóa sách” của toàn xã hội xuống cấp có đáng để chúng ta phải xem như một việc quá đỗi nghiêm trọng và bất bình thường hay không?
CÔNG CHỨC VÀ VĂN HÓA SÁCH
HOÀI NAM
Gần đây, số tiền khổng lồ nào đó được nêu ra như điều
kiện vật chất cần thiết để người ta có thể thực hiện một công cuộc “chấn hưng
văn hóa đất nước” đã khiến dư luận báo chí và dư luận mạng xã hội phải ào ào
như sôi. Số tiền ấy đáng hay không đáng? Nếu có nó rồi, để “chấn hưng văn hóa đất
nước” thì sẽ chấn hưng vào đâu? Những người có trách nhiệm có đảm bảo được rằng
dòng tiền sẽ rót vào đúng nơi, hay nó lại tràn vào những chỗ vô thưởng vô phạt
nào khác?
Cả xã hội, có thể nói vậy, ráo riết lên tiếng hỏi,
nhưng hình như cơ quan chức năng vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Riêng tôi vẫn
cứ nghĩ rằng: “chấn hưng văn hóa đất nước” là cần thiết - vì nó đặt trên một giả
định đúng, rằng văn hóa xã hội đang tạm thời có những sự suy bại nhãn tiền -
nhưng trước hết, “chấn hưng văn hóa” là phải nhằm đến chấn hưng những phương diện
cơ bản nhất để tạo thành con người văn hóa, điều mà không phải cứ hễ có núi tiền
là lập tức mọi vấn đề được giải quyết trọn vẹn. Tóm lại, phải chú ý đến chấn
hưng các hành vi văn hóa chủ yếu: cái sự nghe, nói, đọc, viết của mỗi người và
của mọi người.
Vì thế, một lần nữa, tôi lại muốn nói về cái sự đọc của
người Việt Nam chúng ta hiện nay, chỉ một sự “đọc” thôi: đọc sách. Nhưng người
Việt, ngay trong bản thân khái niệm này đã bao hàm những sự phân biệt về tuổi
tác, ngành nghề, phạm vi hoạt động, trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ v.v... Mỗi
một giới xã hội có một nhu cầu đọc riêng, không giống nhau. Không tính tới các
loại sách phục vụ cho những chuyên môn hẹp (y tế, kỹ thuật, kế toán, thống kê,
luật pháp, nông nghiệp v.v...) mà chỉ nói về loại sách vẫn được giới xuất bản gọi
bằng cái tên “sách xã hội”, thì xét về lý thuyết, độc giả giàu tiềm năng nhất của
loại sách này, theo tôi, phải là những người đang làm việc trong các ngành văn
hóa.
Nói là “phải”, vì yêu cầu công việc, vì họ chỉ có thể
làm tốt công việc họ đang làm thông qua sự tiếp xúc thường xuyên với sách, liên
tục trau dồi kiến thức, liên tục mở rộng và nâng cấp tri thức từ và bằng những
con chữ. Thế nhưng, ta sẽ nói gì đây khi một nhà văn Việt Nam từng gọi điện thoại
rủ bạn đến tham gia hội thảo về ông “Susaraki” (tức là nhà văn Nhật Bản nổi tiếng
thế giới Murakami)? Ta sẽ nói gì đây khi trong một cửa hàng sách lớn nhất Hà Nội,
người ta từng đặt cuốn tiểu thuyết “Từ điển Khazar” của Milorad Pavic ở khu vực
bày từ điển? Ta sẽ nói gì đây khi ông trưởng đoàn của một đoàn kịch nói vốn nổi
tiếng một thời về việc dựng những vở kịch cổ điển của thế giới, hỏi rằng:
“Phedre của Racine à? Nó có hay không?”? (Những ví dụ như vậy có thể dẫn ra vô
khối, và xin cam đoan rằng tất cả đều là sự thật 100%). Nghĩa là, họ không đọc,
mặc kệ cái yêu cầu “phải đọc” mà công việc đặt ra.
Chẳng nói đâu xa, ngay ở nhiều cơ quan báo chí cỡ bự,
nơi mà mỗi phóng viên đều tiềm tàng khả năng “mọc mũi sủi tăm” trong mắt thiên
hạ, bàn chuyện “văn hóa sách” là bàn tới một điều gì đó khá xa xỉ. Có lẽ đa phần
(tôi không dám nói là tất cả) các nhà báo phải làm việc quần quật cả ngày, nên
tối về họ mệt mỏi tới mức không đủ sức lật một trang sách. Chính vì thế mà mặc
cho dư luận sôi nổi bàn tán về các tác giả văn học Tây Tàu đương đại, họ nghe
còn nhỏ hơn tiếng ruồi đập cánh. Chỉ đến khi nào công việc bắt phải đụng tới những
vị này, họ mới nháo nhác tất bật: ông/ bà ấy là ai? viết cái gì? đọc có... ra
gì không? Đại loại thế.
Đó là tôi mới nói tới các tác giả của văn chương hư cấu,
dù sao cũng tương đối dễ đọc. Còn nếu kể tên tác giả của loại sách triết học,
tư tưởng, sách nghiên cứu khoa học xã hội..., thì chắc chắn đối với một số bộ
phận nhà báo hiện nay, đó sẽ là những cái tên ngang bằng với những cái tên vô
danh nhất. Xin được nhận trước khuyết điểm là tôi không thể đưa ra những con số
điều tra cụ thể - như lẽ ra phải thế - nhưng tôi tin rằng câu hỏi đặt ra với
các nhà báo nọ không nên là: “một tháng các anh/ chị đọc được bao nhiêu cuốn
sách?”, mà phải là: “trong một năm liệu các anh/ chị có đọc trọn vẹn được một
cuốn sách hay không?”. Thật thế, rất nhiều chuyện đáng ngạc nhiên để rồi sau đó
lại thấy chẳng có gì phải ngạc nhiên.
Hiển nhiên là với đối tượng độc giả như những bộ phận
nhà báo này - rộng ra, với một bộ phận các công chức văn hóa kiểu này - các nhà
làm sách tốt nhất là đừng định hướng mục tiêu kinh doanh của mình vào họ cho khỏi
mất công. Không yêu sách, không mê đọc sách, không tìm thấy cái khoái cảm của
việc cầm cuốn sách trên tay và lật giở các trang sách thơm mùi giấy mực (có vị
còn rất hồn nhiên khoe rằng cứ hễ đọc vài trang sách là hai mắt díp lại, buồn
ngủ) họ cũng chẳng việc gì phải mất thời gian tìm sách, chẳng việc gì phải bỏ
tiền mua sách về. Điều đáng nói là ở chỗ, làm việc ở những cơ quan báo chí cỡ bự
này, họ lại rất thường được người khác tặng sách, biếu sách. Dĩ nhiên là những
cuốn sách ấy không may mắn: chúng phải chịu một số kiếp đáng buồn là chẳng bao
giờ được đọc, trong khi nhiều người khác cần đọc thì lại không có sách để đọc.
Nhưng việc lớn hơn mà tôi muốn bàn ra từ chuyện này,
đó là sự thiếu hụt trong nhu cầu tiêu thụ văn hóa của một bộ phận công chức văn
hóa hiện nay. Đừng hy vọng nhiều rằng những công chức văn hóa dị ứng với sách lại
có thể vẫn là những công chúng đáng yêu của các loại hình nghệ thuật khác.
Không có nhu cầu đọc sách, chẳng có gì đảm bảo rằng họ lại có nhu cầu nghe hòa
nhạc, xem phim, xem kịch, ngắm tranh tượng v.v... Một lý do thi thoảng vẫn được
người này kẻ khác viện dẫn, là vé vào cửa để thưởng thức những loại hình nghệ
thuật ấy quá đắt (đôi khi người ta cũng la làng lên là sách đắt). Có lẽ thế thật.
Nhưng hãy thử đặt số tiền để mua một chiếc vé nghe hòa nhạc hay xem vũ kịch (là
những loại vé có giá khá cao, vé xem phim xem kịch thấp hơn) cạnh số tiền mà họ
bỏ ra (không thấy tiếc) để mua một thỏi son, một chiếc váy, hay thanh toán một
bữa nhậu, xem sao?
Bản chất của câu chuyện ở đây dường như chính là sự vắng
mặt nhu cầu được tiêu thụ văn hóa để từ đó nâng tầm cái tôi văn hóa của mỗi cá
nhân. Vậy nên, không lấy làm lạ khi ngay cả trong trường hợp không phải bỏ tiền
ra mua vé (điều này xảy ra khá thường xuyên) thì họ cũng vẫn từ chối cái quyền
được là khán giả của giao hưởng, của vũ kịch, của sân khấu, của điện ảnh đích
thực. Rất ít có ngoại lệ: những công chức văn hóa loại này phần lớn là những
người ghét sách, và ghét chữ. Có thể tôi quá lời, nhưng quả thực tôi có cảm
giác rằng dường như đang tồn tại một sự “tái mù chữ” ở một bộ phận công chức
văn hóa nào đó: chữ, vốn để đọc và viết. Đọc, thì như ta đã thấy. Còn viết,
không lẽ việc soạn thảo giấy đề nghị, công văn, tờ trình các loại cũng đáng được
gọi là viết hay sao?
Đã đến lúc phải có lời cắt nghĩa cho chuyện này. Về
“văn hóa sách” của toàn xã hội nói chung, nhiều vị đã mổ xẻ và lý giải khá chi
tiết, tôi sẽ không lặp lại. Riêng trong chuyện về cái sự đọc của một bộ phận
thuộc giới công chức văn hóa hiện nay, xin được nói ngắn gọn rằng việc họ lười,
hoặc không đọc, ấy là bởi họ đang hành nghề trong một môi trường công việc mà
không cần đọc vẫn có thể làm việc được. Môi trường công việc ấy rõ ràng không đặt
ra yêu cầu gắt gao về trình độ chuyên môn và nền tảng kiến thức văn hóa đối với
chính những công chức của nó. Làm văn hóa dường như được/ bị coi là việc làm
cho có, làm cho xong, thế nào cũng được.
Dĩ nhiên, không thể đòi hỏi bất cứ ai cũng phải là một
người yêu sách, mê đọc sách (phải tập, có người bảo rằng đến năm 20 tuổi mà
không hình thành được thói quen đọc sách thì kể như đã... hết hy vọng trở thành
người yêu sách). Nhưng ít ra, nếu hoạt động trong những môi trường mà việc đọc
sách là một sự bắt buộc, vì không đọc thì không thể nâng cao tri thức để đáp ứng
yêu cầu do công việc đặt ra, thì theo tôi, chắc chắn là chúng ta sẽ phải nói về
“văn hóa sách” của giới công chức văn hóa hiện nay theo một cách khác.
Tóm lại, tôi muốn kết thúc bằng một câu hỏi: khi mà một
bộ phận những công chức văn hóa - những người lẽ ra phải đọc sách một cách ráo
riết nhất - không, hoặc lười đọc sách, thì việc văn hóa sách” của toàn xã hội
xuống cấp có đáng để chúng ta phải xem như một việc quá đỗi nghiêm trọng và bất
bình thường hay không? Câu hỏi, có lẽ tự nó đã là câu trả lời.
Nguồn: Văn Nghệ Công
An