Năm 1988, tập thơ “Ngựa
biển” của Hoàng Hưng do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành, đã tạo ra những tranh luận trái
chiều trong giới sáng tác và giới phê bình. 35 năm đã trôi qua, đời sống văn học
đã có nhiều thay đổi, nhưng câu chuyện “Ngựa biển” vẫn còn dư âm.
NGỰA BIỂN – MỘT GIỌNG THƠ LẠ
(Thơ Hoàng Hưng, NXB Trẻ năm 1988)
ĐÔNG LA
Mở đầu cho tập thơ của mình, Hoàng Hưng viết:
“Em
là con ngựa non thon vó
Giữa rừng người hoang vu”
Dường như khi cho xuất hiện một giọng thơ mới, anh đã
có một chút e ngại. Đến hôm nay, chúng ta đều thấy sự e ngại của anh có phần
đúng, nhưng theo tôi nghĩ, nó cũng không hoàn toàn đúng.
Khi đọc xong tập thơ, tôi có cảm giác hình như Hoàng Hưng không
chú ý lắm đến vấn đề viết về cái gì, điều mà mọi người viết đều quan tâm đầu
tiên mỗi khi ngồi trước một trang giấy, mà anh chú ý nhiều hơn đến việc thể hiện
cái tôi của mình trong thơ. Đó chính là sự tìm kiếm, sự phát hiện trong cõi tâm
linh của mình những dấu ấn, những hình ảnh về tình yêu, tình bạn và về thế giới
khách quan.
Vì lẽ đó, nếu chỉ dựa trên những thước đo, những tiêu
chuẩn cứng nhắc đã có sẵn, người đọc chắc chắn sẽ bị "dội" khi tiếp
xúc với “Ngựa
biển”. Hơn thế nữa, nếu
chỉ coi thơ nghệ thuật vị nhân sinh, chỉ là thơ làm phân xanh, thơ bắn súng trước
đây và thơ nuôi tôm, thơ mây tre lá xuất khẩu ngày nay, thì dễ cho thơ Hoàng
Hưng chỉ là thứ thơ vô bổ, nhảm nhí. Thế nhưng, khi xã hội càng văn minh thì sự
thưởng thức cái đẹp, thưởng thức nghệ thuật của con người lại càng đa dạng, càng tinh tế hơn.
Người ta không chỉ thích những gì có nội dung cụ thể mà còn thích cả những vẻ đẹp
đơn thuần, những vẻ đẹp trừu tượng mà theo logic của đời thường thì không có ý
nghĩa.
Những bức tranh về chiếc cầu, hoa hướng dương, hoa
diên vĩ của Van Gogh, ngoài các vật thể được thể hiện, chúng cũng chẳng chứa đựng
một "nội dung" cụ thể nào cả, song chúng vẫn được bán với những giá
khủng khiếp.
Bông hồng nở mỗi buổi sáng, nếu không có những gán
ghép ý tưởng của những bộ óc tưởng tượng quá phong phú, nó cũng chẳng nở thêm một
nội dung nào cả, nhưng con người, có lẽ chỉ có những ai không bình thường mới
nó là xấu.
Với những ý nghĩ trên đây, tôi đã không thờ ơ, không vội
chối bỏ thơ anh. Mà tôi lại trân trọng anh ở chỗ, trong thời điểm mà sách vụ
án, sách tình yêu dung tục (những thể loại đều có nội dung ghê gớm) tràn ngập,
về thơ thì kể từ thơ của các tác giả tên tuổi đến các tác giả trẻ đã được xã hội
công nhận là tài hoa đều ế ẩm; mà anh lại dám đưa ra một dạng thơ không có những
"nội dung" như nhiều người quen chờ đợi. Tôi hiểu anh là một người có
bản lĩnh và tự tin nhiều lắm.
Đi cụ thể vào tập thơ, tôi thấy bao trùm lên toàn bộ
đó là cái tứ về biển. Trong hành trình từ tồn tại khách quan đến tâm thức và cuối
cùng là tỉnh thức, Hoàng Hưng phát hiện trong đó có những liên tưởng giữa tình cảm của mình với
biển. Ở chùm không đề đầu tiên, anh viết ở vùng gần tâm thức hơn nên ý tưởng của
anh khá rành mạch. Anh sử dụng hình tượng biển để diễn tả chủ thể tình yêu: “Em mới hiểu rằng,
em là biển”. Rồi: “Anh mới hiểu chính
em là biển”
(trang 13)
Anh cũng sử dụng những thuộc tính của biển để diễn tả
cảm xúc:
“Những
bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn” (trang 13)
Có lẽ nào một tâm hồn nhạy cảm với thơ lại không bị
"làm bàn" bởi "cú sút" rất động và rất giầu hình ảnh này.
Trong khúc hai của chùm này, anh lại sử dụng biển để
diễn tả tâm trạng:
“Em
ơi đừng mặc áo vàng
....
Biển động, sóng trào dữ dội
Rồi:
Em ơi đừng mặc áo đỏ tươi
...
Sóng đổ nhào, biển động mãi không thôi” (trang 15)
Sang chùm “Người yêu miệt biển”, thơ Hoàng Hưng chuyển
gần hơn một chút đến vùng linh thức. Linh thức là vùng hoạt động không rành mạch,
không tuân theo một logic nào của tư duy con người. Vì vậy, văn bản hóa tình cảm
ở vùng không rành mạch, không logic này tất yếu dẫn đến chuyện không rõ ràng,
khiến người đọc, nếu tiếp xúc bằng tư duy logic, sẽ khó hiểu.
Giữa ý tưởng và cách thể hiện có một khoảng cách,
trong liên tưởng có những bước chuyển đột ngột, Hoàng Hưng viết:
“Em
bỗng chín đỏ như trái cây chạm mặt trời mùa hạ
Trái cây hoang dã
Vùng biển sâu”
(đoạn 2, trang 17)
Rồi:
“Mùa
trái cây tàn rồi
Đất trời mưng mưng nước
Mênh mang vườn mưa
Bao giờ đến được
Lung linh trái mặt trời
Tiếng cười trong khóm lá”
(đoạn 7, trang 24)
Thoạt đọc thì có vẻ khó hiểu, nhưng đọc toàn bài, ngẫm
nghĩ Một chút, ta vẫn có thể biết được rằng tác giả muốn diễn đạt những khao
khát của tình yêu, những ước vọng khôn cùng, không sao đạt được.
Ngay trong hội họa, có lẽ sau thời Phục Hưng xa xăm,
không còn một họa sĩ hiện đại nào lại vẽ cơ thể con người chính xác như những bức
truyền thần, mà những đường nét cũng đều chệch khỏi, đều bị nhòe so với nét chuẩn.
Và kỳ lạ thay, bằng những sự bất thường ấy, người nghệ sĩ lại thể hiện được cái
tôi nhiều nhất. Tôi đã xao động vô cùng khi được xem những bức ảnh của trang
Van Gốc, các vật thể được hòa tan vào trong nhau, trong các nét vẽ lăn tăn lăn
tăn, trong một cõi u mê huyền diệu của tình cảm ngoài họa sĩ. Dường như trên
tranh không còn cảnh vật nữa mà chính là cái tôi của Van Gốc được tan ra, được
trát lên mặt phẳng.
Trở lại chùm “Người yêu miệt biển” của Hoàng Hưng, thực
ra nó có không ít những đoạn thơ cụ thể mà chẳng khó khăn gì khi cảm chúng.
“Anh
diễn tả cái mong manh của tình yêu:
Lưới thu đóng bạc mình thu em ơi
Mắt em nhìn ta qua lưới thưa
Xa lạ như là con mắt cá
Sắp quẫy vào lòng biển sâu
Hoặc sự gặp gỡ của đôi tình nhân
Anh trao anh rối rắm
Vào ngón tay em
Em không gỡ...”
Sang phần “Thơ cho bạn bè”, Hoàng Hưng cũng giữ một lối
viết như phần “Thơ tình”. Nếu trong đời thực ta có quen biết các nhân vật mà
anh đề tặng, ta sẽ thấy thơ anh là có lý.
Riêng phần ba của “Ngựa biển”, phần “Thơ vụt hiện”, phần mà mọi người
thấy lạ lùng nhất. Ở đây, Hoàng Hưng đã đẩy sự tìm kiếm của mình vào trong
trong vòng linh thức. Logic thực đã hòa toàn bị xóa bỏ. Nếu lấy tiêu chuẩn hiện
thực thô sơ để xem xét thì phần này hoàn toàn vô nghĩa. Thế nhưng, nếu ta đọc kỹ
một chút ta vẫn nhận thấy những mảnh của tồn tại khách quan hiện ra trong linh
thức của anh. Ta vẫn có thể thấy được anh muốn thể hiện linh cảm, linh giác của
mình về tình yêu, về biển, về buổi sáng phố xá, về những trang viết và về cái
cô đơn...
Bên cạnh những điều đã trình bầy trên đây, người viết
bài này cũng muốn được bàn bạc thêm về một số điều mà các tác giả khác đã viết
về “Ngựa biển”.
Thứ nhất, nếu ai đó, hoặc một số người nào đó thấy “Ngựa biển” là khó hiểu đã vội phủ nhận là vô lý. Vì
trong độc giả không phải tất cả đều thấy vậy. Nếu vậy, hóa ra trong cuộc sống,
cứ gặp một việc khó khăn nào là ta không làm vì nó khó.
Thứ hai, nếu cho những chữ khe, lông, giao hợp của
Hoàng Hưng là tục tĩu thì chúng ta lạc hậu hơn Hồ Xuân Hương và hội họa nhiều
quá. Hơn nữa, Hoàng Hưng lại viết một cách rất khách quan, không một ý đồ kích
dục tục tĩu nào.
Về bài viết của Lê Quang Trang đăng trên báo Nhân Dân gần đây, tôi rất trân trọng bởi lẽ thái
độ rất thiện chí của anh khi viết về một tác phẩm mà anh không thích. Thế
nhưng, về một số quan điểm của anh thì tôi không đồng ý.
Thứ nhất, anh cho thơ Hoàng Hưng là thứ thơ tắc tị là
không đúng. Thơ tắc tị ngày trước là một loại thơ trò chơi, loại thơ thách đố độc
giả. Họ muốn diễn tả những cái cụ thể bằng những cách không cụ thể. Còn Hoàng
Hưng thì đơn thuần chỉ muốn thể hiện tình cảm của mình ở các tầng khác nhau của
nhận thức. Theo tôi nghĩ, cái khó hiểu không phải là một điều xấu mà nó chính
là nét duyên dáng đối với những bộ óc thông minh.
Thứ hai, nếu anh Lê Quang Trang thấy thơ Hoàng Hưng
không hay, anh không cảm được, thì anh cũng chỉ nên phát biểu ý kiến đại diện
cho một mình mình, không nên cho ý kiến của mình là bạn đọc, rồi mọi người. Tôi
nghĩ cái thời mà cả nước ta chỉ có vài trí thức đã lùi xa lâu rồi, người đọc
bây giờ đủ thông minh để tự đọc, không cầu người khác giải thích hay đọc hộ nữa.
Cái thứ ba là về khuynh hướng thơ. Rõ ràng, ai cũng
nói sự sáng tạo là không cùng, là chưa định trước, nếu đã có những hướng đúng,
những mẫu mực, thì có lẽ việc sáng tạo không còn ý nghĩa nữa.
Riêng về thơ Hoàng Hưng, anh Lê Quang Trang thấy không hay thì chỉ có thể
nói được cái anh mới tìm là chưa hay, chứ không thể nói là không đúng. Vì
thơ Hoàng Hưng hoàn toàn không phải là thứ thơ kích động bạo lực, kích động
tình dục bẩn thỉu, thơ phản động chống Đảng, hoặc là thứ thơ mà, khi người ta đọc
xong, người ta thấy bế tắc phải đi tự sát.
Ngay về tính dân tộc trong nghệ thuật, tôi không hiểu
sao người ta hay cho những cái đều đều, hiền hiền, nhè nhẹ là tính dân tộc.
Trong khi đó xã hội ta bây giờ cũng thấy là một xã hội của khoa học kỹ thuật, của
công nghiệp, của kinh doanh... Có lẽ chính vì lẽ đó, người ta hay bị dội khi gặp
một tác phẩm lạ. Khi gặp những câu thơ mà người viết muốn đẩy cảm xúc những
liên tưởng của mình đến cùng tận, người ta dễ cho là bí hiểm, và đầu óc nông
dân cũng hay đánh đồng những câu thơ lớn với lối nói đại ngôn rỗng tuếch.
Riêng tôi, với tư cách là một người viết trẻ, tôi yêu
mến tất cả thơ làm ở các dạng, ở các lĩnh vực, nếu tôi thấy hay. Tôi trân trọng
tất cả những câu thơ, dù chưa hay, nhưng chúng là sản phẩm đích thực của một sự
lao động nghiêm túc, sự trăn trở sáng tạo, nó còn hơn vạn lần những câu thơ
"cùng quy cách", sản phẩm của sự cùn mòn và những trí tuệ lười biếng.
Tôi cũng rất khát khao cánh cửa đổi mới của sự nghiệp
sáng tác sẽ mãi mãi rộng mở. Văn học nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo về cuộc sống
của con người, nên tất cả những gì phản ánh về con người cũng đều được chấp nhận.
Cánh cửa ấy chỉ ngăn lại những tác phẩm xấu xa, những tác phẩm thù địch, những
tác phẩm kích động bạo lực, kích dục tục tĩu bẩn thỉu... mà thôi.
Cánh cửa ấy sẽ rộng mở, sẽ chú ý một cách sâu sắc đối
với những khám phá mới lạ, ngay cả với những tác phẩm viết về những gì còn chưa
tốt đẹp ở xã hội ta, những lưỡi dao mổ đầy trách nhiệm, dù rằng vết mổ ấy có đớn
đau đến mấy.
TP Hồ Chí Minh, 9-1988