Khá nhiều người, nhất là những người sáng tác, vẫn
luôn than phiền trách cứ rằng phê bình hiện nay không theo kịp, không đồng hành
được với sáng tác. Tác phẩm văn chương xuất hiện, nhưng nhà phê bình thì cứ như
đang “nghỉ mát” hoặc đang “ngủ đông” ở đâu đó.
THỬ BIỆN HỘ CHO CÁC NHÀ PHÊ BÌNH
HOÀI NAM
Lâu nay, khi nói đến văn học Việt Nam đương đại,
nghiêm khắc và sòng phẳng, phải thừa nhận rằng nền văn học của chúng ta thiếu vắng
một cách đáng lo ngại những tác phẩm lớn, những tác phẩm kết tinh ở bản thân chúng
sự đột phá trong tìm tòi nghệ thuật và những trăn trở mang tính triết học về cuộc
sống, về thân phận con người.
Đã có nhiều nỗ lực trong việc cắt nghĩa những sự thiếu
vắng này: người ta nêu câu chuyện về tự do sáng tác, người ta đặt vấn đề về tài
năng và tầm văn hóa của nhà văn v.v... Và, sự thiểu năng của phê bình văn học
cũng được tính đến như là một trong những nguyên nhân quy định nên cái thực tế
đáng thất vọng ấy.
Tất nhiên, đã và vẫn đang tồn tại nguyên đó những bất
cập của phê bình văn học, ví như sự thiếu tính chuyên nghiệp, sự lúng túng
trong việc làm chủ và áp dụng những lí thuyết phê bình mới, và người ta có thể
sẽ phải trở đi trở lại để nói về những bất cập ấy. Tuy vậy, trong không ít trường
hợp, phê bình văn học đang phải gồng mình lên dưới những cái gánh quá nặng,
cả những cái gánh vốn không phải của nó. Tôi sẽ thử gọi tên chúng xem sao.
Sự khách quan. Yêu cầu nhà phê bình văn học phải có
thái độ khách quan khi tiếp cận, tìm hiểu và nhận định đối tượng đã được đặt ra
như là một sự điều chỉnh cần thiết trong bối cảnh của một đời sống phê bình quá
dư thừa sự xưng tụng: người ta luôn được đọc những bài viết bay bổng, những nhận
xét kêu vang, những câu văn đủ sức đánh bóng các tác phẩm các tác giả vốn dĩ là
mờ xỉn. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, dường như giữa nhà phê bình và
người sáng tác tồn tại một mối quan hệ thân thiết hoặc có lợi đến mức nào đó.
Viết, là để chiều nịnh nhau, tâng bốc nhau, hoặc ít ra
cũng là để nhắm tới sự “tranh thủ cảm tình” của nhau. Lối phê bình ấy từ lâu đã
được định danh là “phê bình cánh hẩu”. Nó đối lập, tuy không khác về bản chất với
một lối phê bình cũng phổ biến không kém, là “phê bình vùi dập”, thứ phê bình của
sự thù ghét cá nhân: người viết phê bình vốn không mấy quan tâm đến những phẩm
chất thực có của đối tượng, đúng hơn thì mục đích phê bình của anh ta là những
“cái gì đó” nằm ngoài văn chương.
Dĩ nhiên là cả hai lối phê bình kể trên đều chẳng mang
lại điều gì tốt đẹp cho đời sống văn học. Thế nhưng, điều chỉnh chúng bằng cách
đặt yêu cầu rằng nhà phê bình phải “khách quan”, e là một sự điều chỉnh sai hướng.
Hành vi phê bình, tự trong bản chất của nó đã thấm đẫm tính chủ quan: Tôi tiếp
cận và giải mã tác phẩm bằng toàn bộ sở học của Tôi, bằng sự quy chiếu thẩm mỹ
và quy chiếu ý thức hệ của Tôi, bằng con người cảm xúc của riêng Tôi.
Ngay cả trong trường hợp nhà phê bình không “lấy hồn
mình để hiểu hồn người” - theo cách của Hoài Thanh - mà dùng các phương pháp của
khoa học ngoại quan để mổ xẻ đối tượng - như Trương Tửu quan niệm và thực hành
từ rất sớm - thì dấu ấn chủ quan cũng thể hiện khá rõ ở việc mỗi người lại có một
cách riêng, không ai giống ai, khi áp dụng cùng một phương pháp.
Có lẽ ở đây, đúng hơn thì phải đặt ra yêu cầu về “sự
trung thực”: bất chấp những mối quan hệ cá nhân giữa nhà phê bình và người sáng
tác, nhà phê bình phải nói đúng những gì mình đọc được từ tác phẩm, bằng không,
anh ta nên im lặng. Có thể nói, đây chính là vấn đề đạo đức của phê bình văn học.
Sự theo kịp. Khá nhiều người, nhất là những người
sáng tác, vẫn luôn than phiền trách cứ rằng phê bình hiện nay không theo kịp,
không đồng hành được với sáng tác. Tác phẩm văn chương xuất hiện, nhưng nhà phê
bình thì cứ như đang “nghỉ mát” hoặc đang “ngủ đông” ở đâu đó. Không phải không
có cơ sở trong sự trách cứ này khi mà quả thực có những nhà phê bình đã trở nên
ngại áp sát thực tế văn chương, lười đọc, lười nghĩ, lười viết.
Nhưng mặt khác, sự trách cứ cũng bộc lộ những bất cập
nhất định. Trước hết, đó là tâm lý nôn nóng của người sáng tác: anh ta muốn,
trong thời gian ngắn nhất có thể, đứa con tinh thần của mình phải nhận được sự
hỏi thăm chăm sóc của giới phê bình, càng nhiệt tình càng tốt. Sau nữa, một
cách dường như không cần phải bàn cãi, người sáng tác tin chắc rằng ít ra thì
tác phẩm của anh ta cũng đạt đến tầm vóc nào đó, mang chứa những giá trị nào
đó, bỏ qua nó, đó là lỗi của nhà phê bình.
Sự thực là gì? Không một nhà phê bình nào có đủ thời
gian và sự kiên nhẫn để đọc cho hết lượng tác phẩm văn chương cứ tuôn ra ào ào
hàng ngày, như thác lũ. Thêm nữa, ngay trong những cái mà anh ta đọc được,
không phải cái nào cũng đáng để nói tới: tác phẩm phải kết tinh giá trị nghệ
thuật và tư tưởng đến một mức độ nào đó thì mới đủ sức mạnh lay động, kích
thích, thúc giục nhà phê bình viết về nó (mà những tác phẩm như vậy thì vốn
không nhiều trong nền văn học của chúng ta).
Vả lại, ở đây cũng cần phải tính đến yếu tố thời gian.
Giá trị mà tác phẩm mang chứa không phải bao giờ cũng được nhận diện ngay lập tức,
thời gian sẽ làm cho nó lắng lại, rõ ra, và khi đó mới là lúc bắt đầu công việc
của nhà phê bình văn học. Vì thế, đòi hỏi nhà phê bình nhất thiết phải cất tiếng
nói ngay khi tác phẩm ra đời, trong nhiều trường hợp, chính là sự ép buộc nhà
phê bình phải bán lúa non những ý tưởng của mình.
Chưa hết, yêu cầu một cách riết róng rằng phê bình văn
học phải theo kịp với sáng tác, đôi khi lại khiến người ta phủ nhận cái quyền
hành nghề của nhà phê bình trên một lĩnh vực hoàn toàn hợp pháp: tác phẩm văn
chương ở các thời đại quá khứ. Thực tế khá phổ biến là, cứ hễ viết về tác phẩm
nào đó của quá khứ, nhất là những danh tác, những tác phẩm đã ổn định về mặt
đánh giá giá trị, nhà phê bình sẽ bị chụp ngay lấy cái mũ “rời bỏ trận địa văn
học đương đại”, “chạy trốn, núp dưới cái bóng đổ của những tượng đài văn chương
quá khứ” v.v... Những người buộc tội quên, hoặc không ý thức rằng, ở những mảnh
đất đã bị cày đi xới lại ấy, đã bị khai thác đến mức tưởng như không thể khai
thác thêm gì nữa ấy, sẽ là có giá nếu nhà phê bình phát hiện được cái gì đó mới
mẻ. Và càng có giá hơn nếu từ đó nhà phê bình đề xuất được một cách tiếp cận mới
đối với tác phẩm văn chương nói chung, một phương pháp mới mang tính năng sản.
Sự định hướng. Yêu cầu “định hướng” đặt nhà phê
bình ở vị thế ông thầy của người sáng tác. Anh ta xác lập những mô hình chuẩn,
những giá trị ổn định, và người sáng tác khỏi cần phải nghĩ ngợi, cứ dựa vào đó
mà làm theo, như cậu học trò làm theo ông thầy giáo vậy. Nhìn từ giác độ lịch sử,
điều này đã từng là một thực tế ở thời Hy Lạp cổ đại với công trình “Nghệ thuật
thi ca” của Aristotles, và ở Trung Quốc cổ với công trình “Văn tâm điêu long” của
Lưu Hiệp.
Hai nhà bác học này là những nhà lập pháp của hai truyền
thống văn chương, họ đưa ra những khuôn mẫu thể loại và những thang giá trị thẩm
mỹ bất biến. Tài năng của người sáng tác lớn đến đâu chính là căn cứ vào việc
anh ta “làm theo” được đến đâu những khuôn mẫu thể loại ấy và chiếm lĩnh được đến
đâu những thang bậc giá trị thẩm mỹ ấy. Đó cũng là câu chuyện trong văn chương
Việt Nam một thời chưa xa: nhà phê bình chỉ đường cho người sáng tác, người
sáng tác chỉ còn việc phải răm rắp đi cho đúng con đường ấy nếu anh muốn được
công nhận. Phê bình văn học ở đây là lối phê bình chủ yếu dựa trên quyết định
luận nhị nguyên: phản ánh trung thực/ phản ánh xuyên tạc, đúng/ sai, tốt/ xấu
v.v...
Có thể nói, cái sự “định hướng” cho người khác phải
“làm theo” của một thời như vậy đã trượt theo đà quán tính đến tận bây giờ và
nó tạo thành thứ gánh nặng quá sức đối với nhà phê bình văn học. Bởi, về bản chất,
nhà phê bình chỉ là một người đọc có nghề, một “siêu độc giả”, nếu muốn nhấn mạnh.
Anh ta đọc tác phẩm rồi đưa ra “cái đọc” của mình về tác phẩm, như một tham khảo
cần thiết đến mức nào đó đối với người sáng tác và với công chúng độc giả.
Điều này được khẳng định thêm bởi một sự thực cũng thuộc
về bản chất, rằng mỗi một người sáng tác đều là Thượng đế của chính mình: anh
ta sáng tạo thế giới văn chương của anh ta theo cách anh ta muốn, thế giới ấy
có thể cùng một mô hình với những thế giới có từ trước đó, hoặc thế giới ấy đi
ra ngoài chúng, nhạo báng chúng, phá vỡ chúng.
Tóm lại, người sáng tác không cần đến sự “định hướng”
của nhà phê bình như một tất yếu, và nhà phê bình cũng không tất yếu phải coi
“định hướng” như một thứ trách nhiệm mà mình phải thực hiện bằng bất cứ giá nào
trong bất cứ trường hợp nào. Thiết nghĩ, để có thể tôn trọng nhà phê bình văn học
và hoạt động phê bình văn học một cách đúng mức nhất, cần phải không được quên
lời nhắc nhở của F.Engels: “Gọi sự vật bằng tên của nó và đặt nó vào đúng chỗ của
nó”.
Nguồn: VNCA