Chủ
nhật, 6/8, tại Thư viện Quốc Gia Việt Nam, diễn ra buổi ra mắt và trao tặng bộ
sách “Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận” do Viện Nhân học văn hóa thực hiện.
Xin giới thiệu bài viết của một tác giả tham gia vào dự án sách có ý nghĩa này.
Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số
phận
NGUYỄN XUÂN TUẤN
Nhà văn Lê Lựu sinh năm 1938 tại thôn Mãn Hòa, xã Tân
Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Nhiều người đã thốt lên khi đặt chân đến
Hưng Yên rằng “đây là mảnh đất văn hiến ngàn năm”. Xã hội có lúc đổi thay nhưng
người Hưng Yên luôn chung lưng đấu cật cùng nhân dân cả nước xây dựng hệ giá trị
văn hoá bền vững.
Tôi tự hào được sinh ra trên mảnh đất “ngàn năm văn hiến”
ấy. Tự hào hơn nữa được sinh ra, lớn lên ở vùng đất Khoái Châu. Tôi và những
người đồng hương Khoái Châu, Hưng Yên với nhà văn Lê Lựu nói riêng, các nhà văn
của cả nước nói chung đồng thời là thế hệ tiếp nối theo nghiệp văn chương,
chúng tôi cần có trách nhiệm góp phần biên soạn ra một cuốn sách về cuộc đời,
văn chương và số phận của ông, một người cả đời dành đam mê, nhiệt huyết, dũng
cảm, dấn thân hết sức trách nhiệm với văn chương, với xã hội, với đất nước.
Nhà văn Lê Lựu đã giã biệt chúng ta. Ông trở về với thế
giới của người hiền,
nhưng văn chương và số phận
của ông dường như chưa dừng lại. Đó là một sự thật hiển nhiên, cho dù sự thật ấy,
không phải lúc nào cũng khiến chúng ta mừng cho ông mà còn thắc thỏm về ông.
Trong một cuộc phỏng vấn về tiểu thuyết Thời xa vắng,
Lê Lựu từng thốt lên: “Cái đầu tiên mà mọi người nhận ra là mình không nói dối
nữa! Mình nói thật với cuộc đời về cuộc đời đó rồi!” mới thấy Lê Lựu khao khát
sự thật, muốn nói thật đến mức nào. Và đương nhiên, Văn chương và số phận của
nhà văn Lê Lựu cũng coi như một hành trình đi tìm sự thật.
Lê Lựu có cuộc đời nổi chìm, cơ cực, cương cường như
văn chương của ông. Sự rèn luyện về văn chất và bản chất người của Lê Lựu luôn
không ngưng nghỉ. Kể cả khi ông mất đi, những dòng chữ mà ông chuẩn bị từ trước
đều là trình bày một sự thật, rất khốc liệt, rất đắng cay nhưng vấn đề đó là sự
thật. Chúng tôi đã quá đỗi băn khoăn khi làm một tập sách về ông. Nhất là tên
sách sẽ như thế nào? Ông là một nhà văn lớn của văn chương Việt Nam đương đại.
Ông là người luôn ở tuyến đầu, tuyến đầu Đổi mới. Ông là người nhập cuộc đến tận
cùng cái đời sống không hề dễ thở của chúng ta. Vậy giới văn bút viết về ông, định
luận cuộc đời và văn nghiệp của ông sẽ quy hoạch ra sao trong tập sách?
Có hai người chúng tôi tham khảo là nhà thơ Trần Đăng
Khoa và nhà văn Nguyễn Trí Huân. Tên sách đưa ra là Nhà văn Lê Lựu, văn chương
và thời cuộc. Nhà thơ thần đồng ngẫm ngợi rất lâu rồi phản biện: “Nhà văn nào
chả nhập cuộc và gắn với thời cuộc. Viết về lịch sử từ mấy nghìn năm trước, nhà
văn hôm nay cũng là nhập cuộc chứ. Nhưng với Lê Lựu, nhà văn gắn liền với số phận,
thân phận của biết bao người”. Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận không hẳn
đã đặc sắc nhưng rất đúng với văn chương và cuộc đời Lê Lựu. Nhà văn Nguyễn Trí
Huân - người rất gắn bó với Lê Lựu suy nghĩ và nhất trí tên sách với chúng tôi.
Chúng ta không nên quá cầu toàn, cái trọng yếu là những gì sẽ có trong trang
sách.
Hàng chục tiểu thuyết, tập truyện ngắn từ Người cầm
súng (1970) đến Gã dở hơi (2012) với gần nửa thế kỷ sống, cầm súng và cầm bút,
sử dụng toàn bộ sức lực, trí tuệ, sự đam mê, niềm tin, trái tim và hành động của
mình, thân phận cuộc đời mình đến hơi thở cuối cùng cho văn chương chữ nghĩa và
đạo nghĩa đã cho thấy một Lê Lựu luôn dấn thân và cống hiến. Khi Lê Lựu mất, không
ít người thấy chòng chành, hụt hẫng tiếc thương ông. Đó cũng là một sự thật hiển
nhiên. Một vẻ đẹp đến từ văn chương, từ đời sống.
Ở bất cứ lúc nào, Lê Lựu đều là người tỉnh táo. Có tỉnh
táo mới chạm được vào sự thật. Ở khoảnh khắc viết Thời xa vắng, như ông nhận định:
“Năm 1984 nằm trong thời kỳ những năm rất chặt chẽ trên mọi phương diện, cả về
kinh tế, văn hóa, chính trị. Đó là những năm chặt chẽ, bảo thủ, cố thủ rất ghê
gớm!” Một nhà văn đã nhìn thẳng sự thật như vậy còn cảm nhận rằng: “Chính vì vậy
mà mình liều viết ra, rồi in được thì in, mà không thì thôi cũng đành”.
Thời xa vắng được viết ra. Tiếp đó là Chuyện làng Cuội
(1990); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (1999). Bốn cuốn tiểu thuyết chủ chốt
nhất của Lê Lựu được viết ra khi chiếc lò xo đã được nén căng tới đáy. Lê Lựu
đã nói ra được sự thật bằng văn chương và số phận không chỉ của riêng ông mà của
nhân dân, thời đại ông trong một khoảng thời gian, không gian lịch sử. Lê Lựu từng
bảo: “Trong các nhà văn của chúng ta, văn sĩ thì nhiều, nhưng kẻ sĩ thì không
nhiều... Họ yêu dân tộc lắm! Yêu Đảng lắm!” Đó chính là dũng khí của Lê Lựu. Đến
nói ra sự thật còn không dám làm sao tiệm cận văn chương? Ở những nhận định như
thế, đã cho thấy một Lê Lựu không chỉ cầm bút viết ra sự thật mà còn rất trân
trọng người khác cầm bút viết ra sự thật.
Lê Lựu là một nhà văn độc lập. Ông đã đớn đau và dằn vặt,
hy sinh rất nhiều, chịu mất đi rất nhiều bao gồm cả hạnh phúc riêng tư chỉ vì
cái độc lập đó. Ông không độc lập cho riêng mình mà chính là vì số phận, thân
phận của nhân dân và đất nước mà ông quyết làm một ngòi bút độc lập, nói ra những
điều cần nói. Trong Một thời lầm lỗi (1988); Trở lại nước Mỹ (1989) thì tiếng
nói của ông đã trở thành bản lề để mở ra những khung trời lớn mà ông ý thức rất
sâu, thậm chí đã phải sử dụng tới cả sinh mạng chính trị của mình để nói ra.
Đổi mới là một tất yếu lịch sử. Với văn chương, Lê Lựu
là một trong những dấu mốc quan trọng nhất của Đổi mới. Đổi mới là phải nhìn thẳng
vào sự thật, nói ra sự thật. Tất cả sự thực của ông có giới hạn không vượt qua
“làn ranh đỏ” như một số người đã cùng đi trên một cỗ xe rồi lại quay xe. Chúng
ta đã có những lúc như ở vào bước đường cùng, đến mức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã phải
thốt lên: “Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu”. Nói như thế là đau đớn lắm. Người
đứng đầu đã phải nói đến câu đó, như một giới hạn cuối cùng với nhân dân mình
là đau đớn lắm.
Ở bước ngoặt lịch sử đó, điều gì đã cho nhà văn Lê Lựu
với hàng loạt tiểu thuyết và bút ký trực diện với đời sống xã hội giáo điều,
quan liêu, bí bách, cứng nhắc đến cùng cực? Ông từng đau xót nói: “Một xã hội
chỉ dạy cho nhau ăn gian, nói dối tất sẽ trở thành một xã hội lưu manh... Tất cả
sự nhăng nhố ấy, của cái thời ấy, theo mình, nguy hiểm nhất là nó sẽ di hại cho
các thế hệ sau”.
Một nhà văn như Lê Lựu đã phải trả lời thẳng thừng
cách đó, tức là ông đã không còn lựa chọn khác. Còn cay đắng nào hơn, tủi nhục
nào hơn. Biết chắc những tha hóa sẽ diễn ra mà không cách gì ngăn chặn được có
khác gì những mũi khoan khoan từng mũi vào trái tim ông, để lại những lỗ đen bầm
sâu hoắm.
Văn chương và số phận của nhà văn Lê Lựu luôn là một
hành trình mở. Chúng ta có thể thống kê các nhân vật, khái quát và bình phẩm nội
dung và nghệ thuật, từ chủ đề tư tưởng tới cung cách hành văn, từ câu cú ngắn
dài tới những thông điệp mà văn chương của ông đã trình ra trong đời sống bằng
các tiểu luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Đã có nhiều bộ phim điện ảnh,
truyền hình rất thành công, tạo sóng dư luận từ các truyện ngắn, tiểu thuyết của
Lê Lựu. Bản thân ông cũng rất hăng say với điều này.
Các đạo diễn, biên kịch, quay phim, diễn viên rất mê
Lê Lựu vì ông rất thật. Thậm chí là lưu manh, côn đồ, giang hồ cộm cán từng được
ông chia sẻ và giúp đỡ theo kiểu chẳng giống ai. Nhưng đó là sự thật. Người ta
đang đi móc túi mưu sinh, ông lại đưa vào sách, lên phim, họ không hành nghề được,
đến nhờ ông xin cho việc làm cũng là lẽ thường tình. Trách anh em ngoài xã hội
thế nào được? Càng không trách được nhà văn. Chẳng nhẽ thôi không đưa ra sự thật
nữa, cứ để mặc kệ sự giả dối hoành hành, cứ mặc kệ đời sống nhân dân ra sao
cũng được? Than ôi! Đời nào Lê Lựu đi theo con đường ấy!
Nhà văn Lê Lựu chưa bao giờ yên hàn thanh thản trong đời
sống, càng chưa bao giờ tĩnh lặng với văn chương. Văn chương của ông từ cuộc sống
mà ra, và lập tức chúng ùa vào cuộc sống. Phải tài năng lắm và phải biết giấu
tài lắm mới viết được những trang văn như thế. Lê Lựu chính là một bậc hành giả
trong văn chương. Lê Lựu mang hình tượng một Tôn Hành Giả trong lòng bàn tay của
Phật, nằm dưới núi Ngũ Hành Sơn bao nhiêu năm từ khi bàn tay đức Phật úp xuống
nên ông biết thời cuộc và càng biết chấp nhận sự thật. Sự thật khi đeo chiếc
“vòng kim cô” ở chỗ lầm than hành khất, đánh giày, bán báo là những sự thật nhiều
khi khiến chúng ta như không tin ở mắt mình, tai mình, nhất là ở trái tim mình.
Nhưng sự thật, giống như văn chương và số phận, có nghiệt ngã đến thế nào chúng
ta cũng phải đối diện và đồng hành với nó. Như ông đã từng nói: “Cái quan trọng
là khi viết mà người ta đọc thấy đúng mới là văn chương. Viết hay không quan trọng,
mà người ta bảo đúng mới là quan trọng! Nói “đúng” ở đây là đúng với tâm trạng
và số phận của mỗi người”. Nghe cứ ngang anh ách, nhưng ngẫm ra lại vô cùng
đúng vậy.
Lê Lựu là người hết sức có trách nhiệm với văn chương
và số phận của mỗi con người, của nhân dân và dân tộc. Ngay trong đà Đổi mới,
ông đã có những cột mốc Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy sông; Hai
nhà... cùng những cột mốc khác như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Bến không
chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Chuyện
ngõ nghèo của Nguyễn Xuân Khánh... Và chính Lê Lựu chứ không phải ai khác đã
nói thẳng: “Không khí Đổi mới của giai đoạn sau không bằng giai đoạn trước. Cứ
thế này, văn học sẽ gặp hai điều trở ngại. Thứ nhất là quản lý không ăn nhập với
tâm trạng, với nguyện vọng của xu thế, cái không khí của xã hội và rồi của
chính các nhà văn mình. Thứ hai là làm phức tạp lên những chuyện đơn giản, những
điều đơn giản.
Chỉ có Lê Lựu, bằng ba câu nói có vẻ nôm na mà đã diễn
tả đúng đến tận cùng bản chất cả một quãng đường không hề ngắn ngủi.
Lê Lựu luôn là như thế.
Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận là một phần hay
là toàn bộ cuộc đời ông? Liệu có còn những góc khuất nào? Các tác phẩm mà ông
đã viết ra đã được in ra trọn vẹn? Thực ra điều này cũng không nhất thiết phải
trả lời rành rẽ bằng con số. Mở đầu và kết thúc của nhà văn, nhất là một nhà
văn như Lê Lựu không cần thiết phải trả lời hết những câu hỏi, như đời sống
nhân dân cần lao ngoài kia, ai sẽ là người trả lời những câu hỏi chính đáng của
họ? Bây giờ còn có một nhà văn nào như Lê Lựu không? Chúng tôi, thế hệ hậu sinh
chỉ biết bâng khuâng trước văn chương và số phận của ông, của vô số con người.
Văn chương cũng như số phận của nhà văn Lê Lựu có nhiều
khúc quanh, bước ngoặt mà tập sách này đã chạm đến, đã chia sẻ và đồng hành, đớn
đau và kiêu hãnh về ông, cho ông, một nhà văn của nhân dân và Tổ quốc. Hiếm có
một ai yêu nhân dân, nhất là nông dân như Lê Lựu. Càng hiếm có người nào yêu Tổ
quốc như ông, nguyện làm con chó, con gà vượt qua phên giậu cương vực đất đai để
các vị chủ nhân có cớ làm hòa sau bao nhiêu lầm lỗi. Đều là Lê Lựu vậy!
Một Lê Lựu về đình làng, chùa, miếu thì như người thủ từ
nhang đèn tận tụy sớm hôm. Một Lê Lựu Tổng Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh
nhân đường hoàng, đĩnh đạc, sâu sắc trước các chính khách đến thượng tầng tứ trụ.
Một Lê Lựu lo miếng cơm ăn, nước uống cho cậu lái xe, người bảo vệ, đứa bé đánh
giày, bán báo vỉa hè... thì vẫn là Lê Lựu ấy, người nông dân bờ bãi sông Hồng
đã trót mang tai ách kiếp văn chương cứ thế một mạch xông ra với đời, với dân,
với nước.
Có thể khẳng định, nhà văn Lê Lựu là một tác giả quan
trọng của nền văn học cách mạng, nhất là sau Đổi mới 1986. Cả cuộc đời cầm súng
và cầm bút của ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Ông mất đi trong niềm
thương tiếc lớn của gia đình, đồng đội và nhất là độc giả yêu mến văn chương Lê
Lựu đã trên nửa thế kỷ.
Trước đó và nhất là khi ông mất, đã có hàng chục, thậm
chí là hàng trăm bài viết về ông, nhất là giới văn nghệ sĩ, báo chí với sự chân
thành, sâu sắc, nhân văn về nhân cách và tài năng Lê Lựu. Đó cũng là sự tri ân
mà mọi người dành tặng cho ông.
Toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp Lê Lựu rất đồ sộ với
nhiều mảng đề tài đều đạt những dấu mốc, bước ngoặt trong văn xuôi Việt Nam
cũng là thành tựu chung của nền văn học cách mạng mà ông là một trong những cây
bút chủ chốt, đặc sắc.
Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận tới tay bạn đọc,
anh chị em biên soạn chẳng có tham vọng gì nhiều. Chỉ là trình bày ra một sự thật
văn chương và con người Lê Lựu, như chính ông, từ chính ông.
Nhà văn Lê Lựu, văn chương và số phận, bởi vậy, như một nén tâm nhang của giới văn bút kính cẩn tưởng nhớ ông! Cầu mong nhà văn Lê Lựu luôn mãi bình an nơi miền xa vắng!