Mỗi cá nhân có quyền có sự lựa chọn riêng,
và giống như phần đông những chí sĩ xứ Nghệ thường trung thành suốt đời với sự
lựa chọn của mình, cụ Phan Ngọc đã làm như vậy mà không vì bất cứ một sự tư lợi
nào.
LÀM RÕ HAI CÂU HỎI VỀ HỌC GIẢ PHAN NGỌC
ĐẶNG THẾ ĐẠI
Nhân ngày giỗ 3 năm của học giả Phan Ngọc
(26/08/2020, tức 08/07 Canh Tý), tôi xin thắp một nén nhang tưởng nhớ đến cụ. Về
học giả Phan Ngọc, ai đã
tìm hiểu đều có thể đặt ra hai câu hỏi:
Thứ nhất: Vì sao cụ Phan Ngọc sinh ra trong gia đình quan lại, nhưng lại tin tưởng
vào Việt Minh, vào Hồ Chủ tịch, chọn con đường đi theo cách mạng, tuy không gia
nhập Đảng Cộng sản (ĐCS), vẫn suốt đời trung thành với sự lựa chọn của mình?
Thứ hai: Cuốn Mỹ học (Heghen) do cụ dịch tại sao lại khiến một vài người chê
trách, thậm chí, còn bị nhà văn nữ nổi tiếng Phạm Thị Hoài cho là “dịch sai hết
cả”. Một số người, ngay cả quý mến cụ,
cũng tỏ ra tin vào đánh giá của nữ nhà văn nọ. Lẽ nào bên cạnh hàng loạt những
tuyệt phẩm dịch, như Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy, Sử ký của Tư Mã
Thiên, Hàn Phi Tử của Hàn Phi, Nho lâm ngoại sử (Chuyện làng nho) của Ngô Kính
Tử, David Copperfield và Oliver Twist của Charles Dickens, Kịch Sếch-xpia, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của
Saussure, Các phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc luận của Harris, Những
nguyên lý âm vị học của Trubeskoj… cụ Phan Ngọc lại có một tác phẩm quá tệ như
vậy?
Bằng sự hiểu biết của tôi về cụ, tôi cố gắng
đưa ra câu trả lời, hẳn là chưa đầy đủ, nhưng ít nhiều giúp hiểu đúng hơn về cụ.
Về câu hỏi thứ nhất
Thế hệ lớn lên sau 1954 chưa trải qua nên khó
lòng hình dung đầy đủ nỗi nhục của người dân mất nước. Đặc biệt, giới trí thức thời
kỳ đó càng thấm hơn nỗi đau nô lệ. Cho nên vào những năm 1945 - 1946, khi Việt
Minh giương cao lá cờ giải phóng dân tộc và trên thực tế trở thành lực lượng
duy nhất lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp
thì phần đông các trí thức Việt Nam khi ấy, bất kể xuất thân như thế nào, ở
trong hay ngoài nước, đều hăng hái đi theo.
Một số trí thức, sau một thời gian đi theo
thấy không hợp, đã từ bỏ Việt Minh, đặc biệt là vào năm 1954, khi họ được tự do
lựa chọn nơi sống, Nam hay Bắc. Nhưng với rất nhiều trí thức khác, thì việc cụ
Hồ và ĐCS giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ là điều cốt yếu nhất, mọi chuyện
khác không quan trọng bằng. Cụ Phan Ngọc đã trung thành với sự lựa chọn của
mình. Đó là hiện tượng phổ biến, không phải riêng một mình cụ Phan Ngọc.
Cụ Phan Ngọc tin vào cụ Hồ còn vì thái độ ấy
nhất quán với phương châm sống của cụ. Không ít lần cụ nhắc đến thành ngữ “đời
người như bóng câu ngang qua cửa sổ”, và nói thêm, “chỉ có đời sống dân tộc và
nhân dân là có ý nghĩa, còn đời sống cá nhân đáng kể gì!”. Cụ đặt cuộc đời chớp
bóng của mình dưới đời sống trường tồn của dân tộc. Cụ luôn tâm niệm và cả cuộc
đời cụ là minh chứng cho điều cụ nói: “Tôi sống nhỏ bé, nhưng cố gắng làm vài
việc có ích cho dân cho nước”.
Nhà văn Sơn Tùng, bạn thân của cụ, là người
dành cả đời nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, có nhiều tài liệu, kể cả những
tài liệu “trái chiều”, mang đến cho cụ xem, người viết bài này nhân cơ hội mượn
đọc. Cụ bảo: “Phải căn cứ vào cái kết quả quan trọng nhất mà cụ Hồ đã đem lại
là giành độc lập cho dân tộc để có cách nhìn cho đúng”. Thế hệ sau mỗi người có
thể suy nghĩ khác nhau và không giống cụ, nhưng theo tôi, nên hiểu những người
như cụ. Mỗi cá nhân có quyền có sự lựa chọn riêng, và giống như phần đông những
chí sĩ xứ Nghệ thường trung thành suốt đời với sự lựa chọn của mình, cụ Phan Ngọc
đã làm như vậy mà không vì bất cứ một sự tư lợi nào. Cả cuộc đời giản dị, nghèo
về vật chất, nhưng lao động và cống hiến phi thường của cụ minh chứng cho điều
đó.
Về câu hỏi thứ hai
Nhà văn Phạm Thị Hoài viết bài “Sấm Heghen”,
dẫn một số câu trong Mỹ học (Heghen) bản dịch của cụ Phan Ngọc, đối chiếu với
câu tương ứng trong bản gốc tiếng Đức và cho rằng cụ Phan Ngọc dịch sai, rồi kết
luận, không cần phải tìm hiểu thêm, động đến câu nào cũng sai, nói chung, toàn
tác phẩm dịch sai hết cả.
Tôi hoàn toàn không đủ trình độ (về tiếng
Đức, về Mỹ học Heghen) để đánh giá nội dung việc phê phán của chị Hoài là đúng
hay sai, tôi chỉ thấy cách làm của chị không thoả đáng. Ở đây tôi trình bày ý
kiến của mình về cách làm của chị Hoài, để hy vọng sau này nếu có ai phê bình bản
dịch của cụ Phan Ngọc thì có cách làm thuyết phục hơn, và nhờ vậy, bổ ích
hơn cho những người sau này tiếp bước cụ dịch Heghen.
Ta chú ý rằng, cụ Phan Ngọc dịch Heghen từ
bản tiếng Nga, cụ có tham khảo thêm bản tiếng Nga khác cùng các bản tiếng Pháp,
Trung và Đức. Dịch cuốn sách gần 2000 trang như vậy, chắc chắn không ai dịch mỗi
câu lại tham chiếu 5 bản khác nhau. Chỉ khi gặp một câu khó hiểu, khó chọn từ
cho đúng, khó dịch, thì người dịch mới tham khảo sang bản tiếng khác. Vả lại,
không phải cụ Phan Ngọc có đủ đồng thời cả 5 bản Mỹ học của Heghen khi dịch, mà
hình như thoạt đầu cụ chỉ có bản tiếng Nga, sau nhiều năm mới lần lượt tìm mượn
được các bản khác để đối chiếu.
Ta đều biết, một bản dịch dù hoàn hảo cũng
sẽ không tránh khỏi ít nhiều có thay đổi ý tứ của bản gốc, do phải thông qua
cách hiểu của người dịch. Do đó, có người quan niệm người dịch là đồng tác giả.
Người dịch nhiều khi phải chuyển một câu nguyên tác thành nhiều câu, có khi đưa
câu sau, ý sau lên trước, và không ít khi cùng một từ, một cụm từ, một thuật ngữ
trong bản chính, tùy văn cảnh, tuỳ giai đoạn nó xuất hiện, khi chuyển ngữ phải
dịch khác nhau. Sự “vênh váo” giữa các ngôn ngữ khiến người dịch buộc phải linh
hoạt.
Thêm vào đó, Mỹ học của Heghen là tập hợp
các bài giảng của ông ở những thời gian khác nhau trong khoảng hơn 10 năm, do học
trò ghi lại, thì không thể đòi hỏi nó tuyệt đối thống nhất được. Bản thân bộ óc
vĩ đại của Heghen tất nhiên luôn luôn “chuyển động”, tư tưởng của Heghen không
phải một thứ nhất thành bất biến. Mỹ học của Heghen, do đó, sẽ chứa đựng nhiều chỗ
ý tứ vênh nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Bản dịch đương nhiên kế thừa điều ấy. Quá
trình từ tiếng Đức, sang tiếng Nga, rồi sang tiếng Việt càng khiến bản dịch không
tránh khỏi nhiều “xô lệch” so với bản gốc.
Vả chăng, cụ Phan Ngọc một mình dịch một tác phẩm khó như Mỹ học của Heghen gần 2000 trang thì không tránh khỏi có chỗ, có lúc sai sót, nhầm lẫn, vụng về, nên sự phê phán của bạn đọc là cần thiết. Nhưng khi phê phán thậm tệ người dịch như chị Hoài, theo tôi, cần thận trọng hơn. Phan Ngọc dịch từ bản tiếng Nga nào thì người phê phán bản dịch của ông nên chọn đúng bản tiếng Nga ấy để đối chiếu, xem xét, chứ việc dùng bản tiếng Đức như chị Hoài là chưa thuyết phục. Những chỗ mâu thuẫn nhau trong bản dịch, những thuật ngữ, khái niệm mà chị cho là Phan Ngọc dịch sai lẽ ra nên được đối chiếu thêm với các bản tiếng khác, nhất là bản tiếng Nga, trước khi đưa ra kết luận phũ phàng như chị đã làm.
Nhưng điều chủ yếu khiến tôi không đồng ý
với chị Hoài là ở chỗ khác.
Như trên đã nói, nhiều người bị thuyết phục
bởi bài Sấm Heghen của chị Hoài. Điều đó theo tôi không lạ. Chị là người viết
văn hay, văn phê phán lại càng hay. Hơn nữa, nhiều người đọc bản dịch của cụ
Phan Ngọc không hiểu, và do vậy dễ tin theo ý kiến của chị.
Bản thân tôi có lẽ cũng tin rằng chị Hoài phê
phán đúng, nếu… không có trải nghiệm cá nhân. Tôi từng ít nhiều làm công việc dịch
thuật từ tiếng Nga và tiếng Pháp, nhưng điều ấy không có ý nghĩa gì trong chuyện
này. Heghen và Phan Ngọc vượt quá xa tầm của tôi! Trải nghiệm cá nhân tôi muốn
nói ở đây là quá trình tôi đọc hiểu một cuốn sách thuộc tư tưởng Đức, cuốn Tư bản
luận. Tôi nghĩ cuốn này còn dễ hiểu hơn Mỹ học của Heghen nhiều. Cuốn Mỹ học của
Heghen, như trên đã nói, không thể chặt chẽ và thống nhất, còn Tư bản luận, nhất
là quyển I, quyển quan trọng nhất của nó, được C. Mác viết đi viết lại nhiều lần,
rất chặt chẽ, và như ông nói, ông cố viết giản dị nhất để những người công nhân
lao động cũng có thể hiểu được.
Để thuật lại trải nghiệm cá nhân, tôi buộc
phải dài dòng như sau:
Năm 18 tuổi, tốt nghiệp phổ thông, tôi vào
học Khoa Kinh tế - Chính trị Đại học Tổng hợp Hà Nội. 5 năm học ở đây, tôi được
trang bị kiến thức không nhiều, nhưng tập trung vào chuẩn bị kiến thức nền để đọc
cuốn Tư bản luận của C. Mác. Đầu tiên, chúng tôi được học về toán cao cấp (mấy
môn giải tích, đại số tuyến tính, vận trù…, mấy môn này có lẽ không cần lắm, chả
hiểu sao số tiết học lại nhiều?), học mấy môn phụ khác (tâm lý học, luật học…) kiểu
cưỡi ngựa xem hoa, học lịch sử kinh tế thế giới, lịch sử tư tưởng (Phương Tây
và Phương Đông) sơ sài, dựa vào bài giảng ghi chép lại hoặc sách dịch của Liên
Xô, học về chủ nghĩa xã hội khoa học, về triết học Mác-Lênin (hai môn này được
coi là quan trọng, học kỹ hơn, học cả một số tác phẩm của các nhà kinh điển C.
Mác, F. Enghels, V.I. Lê-nin), rồi bắt đầu học các cuốn giáo trình kinh tế
chính trị học của trường đảng Nguyễn Ái Quốc, thực chất là dạng sách phổ thông
hoá Tư bản luận, nhằm trang bị kiến thức cơ bản của kinh tế chính trị học.
Dù đã được học những kiến thức bổ trợ, được
giảng về những khái niệm cơ bản, học môn kinh tế chính trị học… nhưng vào năm thứ
năm, khi đọc thẳng vào Tư bản luận, có thày giảng từng chương, chúng tôi cũng
chỉ nắm được lơ mơ, thực chất là chưa hiểu. Hầu hết chúng tôi đánh vật trên từng
câu của Tư bản luận. Ra trường tôi lại tiếp tục đọc bộ sách này nhiều lần, nhiều
năm, đọc thêm nhiều sách nghiên cứu khác về nó, do môn kinh tế chính trị học,
thực chất với chúng tôi chỉ là cuốn Tư bản luận, được coi là một trong ba môn
thi nghiên cứu sinh kinh tế chính trị học.
Có thể nói rằng, ngoài 35 tuổi, tôi mới
dám tự coi là hiểu Tư bản luận khi có được một chút ý kiến riêng của mình: Mác
nói rằng, ông nghiên cứu giá trị trong mối liên hệ với giá trị sử dụng, nhưng
trên thực tế, theo tôi, ông đã thoát ly giá trị sử dụng. Cụ thể, ông cho rằng trong
nền kinh tế hàng hóa, do áp lực của cạnh tranh, hạ giá thành và nâng cao chất
lượng sản phẩm, nhà tư bản phải không ngừng đầu tư vào kỹ thuật sản xuất, nâng
cao năng suất lao động.
Cuộc chạy đua vô tận này dẫn đến V (phần
giá trị phục hồi sức lao động cho người công nhân) ngày càng nhỏ, M (giá trị thặng
dư) ngày càng lớn, biểu hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và giới chủ ngày càng gay gắt, tất yếu đến một lúc nào đó sẽ bùng nổ cách
mạng. Nhưng theo tôi, trên thực tế người công nhân sống bằng giá trị sử dụng chứ
không phải bằng giá trị. Cho nên dẫu cho V ngày cảng nhỏ đi, nhưng giá trị sử dụng
mà nó chuyển hoá thành ngày một tăng lên, thì đời sống người công nhân vẫn mỗi
ngày được cải thiện, cách mạng sẽ không xảy ra.
Lập luận trên của tôi đúng hay không ở đây
không quan trọng, nhưng phải gần hai chục năm liên tục học tập, tôi mới tự mình
rút ra điều ấy, kể từ đó mới dám cho rằng mình hiểu được một tác phẩm trong tư
tưởng Đức. Tất nhiên, tôi là người bình thường, không phải người thông minh lỗi
lạc, nên mới nhọc nhằn như vậy. Nhưng qua trải nghiệm bản thân, tôi hiểu rằng với
người bình thường, nếu chưa qua đào tạo chuyên biệt, thì đọc C. Mác thôi, chứ
chưa nói đến đọc Heghen, chắc chắn không khác gì đọc sấm.
Một thuật ngữ, như giá trị, bây giờ ai
cũng nói được, bác nông dân, bác nghệ nhân rối nước, cô hướng dẫn viên du lịch…
ai cũng có thể nói nào “giá trị truyền thống”, nào “giá trị văn hoá”, nào “hệ
giá trị đạo đức”, vân vân và vân vân, nhưng trong Tư bản luận thì giá trị lại
mang một ý nghĩa khác, là lao động trừu tượng xã hội tích luỹ lại trong hàng
hoá. Bác nông dân, bác nghệ nhân, cô hướng dẫn viên du lịch… thử đọc Tư bản luận
xem, có hiểu nổi không? Bạn không thể đem cái tiếng Việt thông thường, dù bạn nắm
rất vững, để đọc một cuốn sách lý luận chuyên sâu được!
Heghen càng không phải dành cho mọi người.
Chị Hoài viết: “Mĩ học của Heghen trong nguyên tác không phải là tác phẩm
khó đọc và khó hiểu nhất” (?). Cứ cho là chị đúng, thì Mỹ học của Heghen vẫn là
một trong các tác phẩm khó đọc và khó hiểu nhất, như thế cũng đủ để không dành
cho mọi người. Các tác phẩm đỉnh cao của tư duy lý luận của nhân loại thì đừng
mong dễ hiểu. Chị Hoài dù giỏi tiếng Đức đến đâu, cũng chỉ hiểu được tiếng Đức
trong một vài lĩnh vực quen thuộc nào đó. Tôi chắc chắn, nếu chị đọc một tác phẩm
khoa học cao cấp trong lĩnh vực toán học, y sinh học, địa chất học… thì không
thể hiểu nổi, kể cả đọc bằng tiếng Việt.
Sách Heghen với chị cũng thế mà thôi. Chị
quá chủ quan khi cho rằng Heghen không khó hiểu. Chị viết: “Ngôn ngữ của các
bài giảng ấy là một ngôn ngữ hàn lâm trừu tượng nhưng tương đối sáng tỏ, phần lớn
là đủ mạch lạc, nhiều đoạn dài còn có vẻ giản dị. Không hề là ngôn ngữ sấm”. Đồng
ý với chị, không chỉ Heghen, theo tôi suy đoán, căn cứ vào C. Mác, F. Engels mà
tôi có đọc, thì các nhà tư tưởng Đức nói chung có lẽ đều diễn đạt tư tưởng của
họ bằng một ngôn ngữ sáng tỏ, mạch lạc, dù đôi lúc cầu kỳ, lật đi lật lại. Vấn
đề là sự khó hiểu nằm ở bản thân tư tưởng của họ, chứ không phải ở sự diễn đạt.
Với đa số người đọc, họ vẫn viết “sấm”. Nhà
nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, tuy quý mến cụ Phan Ngọc, nhưng bị thuyết phục bởi
bài Sấm Heghen của chị Hoài, và qua đó tin vào khả năng của chị, đề nghị chị dịch
Mỹ học Heghen. Nhà văn Thảo Hảo cũng vậy. Từ thời điểm ấy đến nay đã 20 năm
trôi qua, tôi cũng hy vọng nhìn thấy bản dịch của chị, dù chỉ một chương, nhưng
chưa!
Không ai buộc chị phải dịch Heghen, nhưng
giả sử chị có dịch, tôi tin cũng không thể dịch nổi. Từ chê người khác đến tự
mình làm, trường hợp dịch Mỹ học Heghen, là một biển trời cách biệt. Chị chọn một
vài câu của tác phẩm ấy, nghĩ là hiểu và dịch theo cách hiểu của mình thì được,
“được” theo nghĩa nào đó thôi. Bản thân tôi đọc Tư bản luận từng câu tuần tự, đến
lúc hiểu được hệ thống, quay trở lại đọc từng câu, hiểu về mỗi câu ấy khác đi.
Đọc truyện, bạn có thể chõm lấy một câu ở bất cứ trang nào cũng hiểu được (tất
nhiên, không phải truyện nào cũng vậy). Nhưng đọc một cuốn sách thuộc tư tưởng
cổ điển Đức thì đòi hỏi không chỉ đọc từng câu, từng đoạn, mà phải tiến đến nắm
được cả hệ thống, rồi quay lại từng câu, từng đoạn mới hiểu được đúng đắn câu ấy,
đoạn ấy.
Cụ Phan Ngọc nói “hiểu Heghen phải chân
truyền”, tức là phải có người giảng giải, hướng dẫn, phải qua đào tạo chu đáo
những kiến thức về triết học Đông Tây, trước Heghen và cùng thời với ông, về tư
tưởng Đức nói chung, về tư tưởng Heghen nói riêng, phải hiểu cả hệ thống của
ông v.v... mới hiểu được đúng từng chương, từng đoạn, từng câu. Thế nên đọc
Heghen khác hẳn với đọc truyện, và thậm chí, khác với tất cả các tác phẩm lý luận
bình thường khác, những thứ chẳng cần chân truyền chi hết. Nhà báo Kiều Mai Sơn
cũng vì yêu quý cụ Phan Ngọc, tỏ vẻ tiếc cho cụ: Sao cụ không dịch từ bản tiếng
Pháp nhỉ (là thứ tiếng mà anh biết cụ rất giỏi), mà lại dịch từ bản tiếng Nga!
Dường như là anh không tin hẳn vào khả năng tiếng Nga của cụ Phan Ngọc. Thực ra,
anh chưa hoàn toàn hiểu cụ Phan Ngọc thôi.
Với dịch giả cỡ như cụ Phan Ngọc, thì dịch
từ tiếng nào cũng thế thôi, Nga, Anh, Đức, Pháp… như nhau hết. Vấn đề không còn
ở ngôn ngữ nữa. Chiến tranh và hòa bình cụ dịch từ tiếng Nga hay như thế nào,
chúng ta đã thấy. Có lần cụ nói đại ý, một khi đã nắm vững tiếng Latin thì các
ngôn ngữ Châu Âu khác học rất nhanh, và nếu đã biết đến 3 tiếng Châu Âu thì học
tiếng Châu Âu thứ 4 thứ 5 rất dễ. Yêu cầu cụ Phan Ngọc dịch một tác phẩm toán học
hay y sinh học cao cấp thì kể cả dịch từ tiếng Pháp cụ cũng không nhận lời, vì
giản đơn là cụ không thể hiểu được. Nhưng Heghen thì cụ dịch, vì thứ nhất, cụ
có kiến thức nền phi thường về tư tưởng đông tây kim cổ. Không như thế không dịch
nổi Heghen, bởi Heghen có thể xem là tập đại thành tri thức nhân loại đến thời
của mình; thứ hai, cụ được chân truyền (ông Trần Đức Thảo giảng cho cụ về
Heghen); và thứ ba, vì cụ là người có trí tuệ lỗi lạc.
Tôi không ít lần kinh ngạc vì không chỉ hỏi
cụ về Phật Thích Ca, Lão tử, Trang tử, Khổng tử… mà hỏi cụ về K. Mác, về
William Petit, về Saint Simon… cũng đều được cụ giảng giải rõ ràng. Sau khi cụ
mất tôi mới biết, cụ là một trong những người tham gia dịch Tư bản luận ở Việt
Nam (các sách của C. Mác ở Việt Nam, như Tư Bản luận, tiếc là không ghi tên những
người dịch). Dịch C. Mác thì cụ phải tìm hiểu các nhà tư tưởng Anh, Pháp, Đức
là chuyện đương nhiên. Nhưng theo tôi, những nhà tư tưởng phương Tây đã được cụ
đọc và tìm hiểu sớm hơn nhiều, ngay từ những năm dùi mài ở ngôi trường danh tiếng
Providance Huế. Họ nằm trong chương trình đào tạo tú tài thời đó. Tôi nghĩ đến
nay vẫn còn nhiều cụ đang còn sống, từng có bằng tú tài, hay tú tài ban triết học
thời Pháp, có thể làm chứng về điều đó.
Cụ Phan Ngọc đã khai phá Heghen và đến một
lúc nào đấy, sẽ có những người được đào tạo chuyên sâu và bài bản hơn về Heghen
tiếp bước cụ, để rồi sẽ ra đời những bản dịch tiếng Việt tốt hơn. Nhưng ít nhất
trong khi chờ đợi, theo tôi nghĩ, phải có một thái độ trân trọng và công bằng với
những nỗ lực của cụ.
Nhìn vào khối lượng đồ sộ sách dịch và viết
của Học giả Phan Ngọc, không ai không khâm phục, bởi chúng chỉ có thể là thành
quả của sự kết hợp may mắn giữa một trí tuệ lỗi lạc với một cuộc đời làm việc miệt
mài, không ngừng nghỉ. Người như thế thì đâu còn tâm trí dành cho những toan
tính tư lợi. Người ta phục tài cụ, nhưng những người có nhiều dịp gần gũi cụ
như tôi thì còn khâm phục nhân cách của cụ không kém.
Hưng Yên,
18/08/2023
Tài liệu tham khảo
Phạm Thị Hoài, Sấm Heghen - 2002
https://tinyurl.com/2p84a6cv
Phạm Xuân Nguyên, Cụ Ngọc và cô Hoài - 2020
Nguồn: https://tinyurl.com/2p8phf2x
Thảo Hảo, Tôi nghi ngờ ông Heghen! - 2002
https://tinyurl.com/mvcsc6sx
Trần Tuấn Cường, HỌC GIẢ - DỊCH GIẢ PHAN
NGỌC (1925-2020): THƯ MỤC SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN (sơ soạn) - 2020
Nguồn: https://tinyurl.com/49nrm683
Son Kieu Mai
Nguồn: https://tinyurl.com/2zhmvp3p