Thời Nguyễn, Cần Giờ là một trạm kiểm
soát đường biển “có cửa lạch sâu rộng, thuyền buôn ra vào yên ổn, là cửa biển tụ
tập đông đúc của tỉnh Gia Định” (Đại Nam nhất thống chí).
CỬA BỂ CẦN GIỜ
NGUYỄN MINH NGỌC
Kết thúc trại sáng tác của Liên hiệp các Hội VHNT Thành phố Hồ Chí Minh, tôi xách theo chùm mầm đước to bằng ngón tay trỏ, dài chừng 25 cm, dính chút sình non của mênh mang rừng Sác, về làm kỷ niệm. Nói chính xác là mấy trái đước cong thuôn, màu xam xám, đầu to rễ đâm tua tủa, đầu nhỏ vót như mũi dùi đỏ sậm, quéo về một phía, rất điệu. Trái nẩy mầm trên cây, khi rụng thì đầu nặng xuống trước, cắm vào bùn hoặc đất nhão. Giả dụ có rơi ngang hay rơi ngửa thì rồi nó vẫn tự xoay trở bám đất, bắt rễ, ngoi lên đứng thẳng tốt tươi mà chẳng cần một sự trợ giúp nào.
Kiên cường và độc lập, đước mang cốt
cách của người quân tử, thanh tao, mà cứng cỏi biết nhường nào. Cây nọ nối tiếp
cây kia, chen vai thích cánh mà lên xanh, nhưng không hề chèn ép, lướt át nhau,
mà chỉ lấn sông lấn biển. Hiếm khi đước mọc cô lẻ, cây nọ nương vào cây kia, cứ
thế chúng sinh sôi, nẩy nở, bộ rễ chân nơm bám sâu vào lòng đất, giữ và bồi đắp
phù sa, tạo nên cả cánh rừng bạt ngàn đưa màu xanh tràn ra tận mí nước.
Cả đoàn di chuyển về Lăng Ông Thủy
tướng. Mải mê ngắm mô hình chiếc thuyền xưa và chiếc tĩn đựng mắm, cái lu nước
bằng sành bóng láng, những vật dụng lâu đời của ngư dân thủa nào, lòng tôi ắp đầy
sự ngưỡng mộ các bậc tiền nhân đã có công mở cõi và giữ đất đai cho muôn đời
con cháu mai sau.
Từ bến tàu Tắc Suất mỗi ngày có 2
chuyến đi và 2 chuyến về nối thị trấn Cần Thạnh với Thiềng Liềng, một trong ba ấp
của xã đảo Thạnh An. Buổi sớm tinh khôi, chiếc tàu vỏ gỗ lượn giữa mênh mang
sông nước, hai bên bạt ngàn đước, tầng thấp rồi tầng cao, đước nối nhau xanh
miên man, quyến rũ.
Cái tên ấp gợi về thủa khai thiên lập
địa. Theo các nhà tự điển có uy tín, Thiềng Liềng là từ khá cổ còn được lưu giữ
trong phương ngữ Nam bộ, đọc theo âm Hán - Việt là “Thành Linh”, nói tắt của cụm
từ “tâm thành tác linh”. Có lẽ đây không chỉ là một địa danh đơn thuần, mà còn
như một lời nhắc nhở về phương cách sống và đối nhân xử thế.
Vòng vèo mất non
tiếng đồng hồ. Lên
bờ, gặp nhà dân ken thành một dãy dài ven rạch. Ở cận bến tàu là những hộ chủ yếu
làm nghề đánh bắt thủy sản. Mấy người đàn ông mải mốt phơi một dãy “rập xếp”, dụng
cụ bắt cá, tôm, mực… dài cỡ 4-5m.
Lên bờ, cận bến tàu bên phía tay mặt
là dãy nhà thấp, chạy dài ven rạch. Các hộ sống bằng nghề đánh bắt thủy sản tập
trung ở đây. Mấy người đàn ông lúi húi phơi một dãy “rập xếp”, dụng cụ bắt cá,
tôm, mực… dài chừng 4-5m. Vài người đàn bà túm tụm vãn chuyện bên chậu ớt quả
tím rịm. Ấp đảo bình yên đến lạ, nhà cửa không khóa bao giờ.
Toàn ấp hiện có 6 tổ nhân dân, gồm 243
nóc gia với hơn 900 nhân khẩu. Trong số này số hộ diêm dân chiếm tới 70%. Đây
là vùng quy hoạch muối của thành phố, vựa muối Cần Giờ. Vụ muối chỉ diễn ra
trong 6 tháng mùa khô, từ tháng 10 năm trước, đến tháng 4 năm sau. Khi chúng
tôi đến, cánh đồng muối vào kỳ “nghỉ xả” cạn trơ, đây đó, từng cuộn vải bạt được
xếp gọn quanh bờ. Ấp đảo có 390 ha đất sản xuất muối, vụ mùa năm 2023 đạt 17
nghìn tấn, cao hơn năm trước 3 nghìn tấn. Giá bán hiện ở mức 2.200 đồng
một ký, là giá cao nhất từ trước đến nay, nên diêm dân phấn khởi. Xong vụ muối,
khi mùa mưa đến, bà con chuyển sang nuôi các loại tôm, cua...
Nắng rắc rây trên đám dừa nước ong óng
xanh, đem lại cảm giác trong lành, thanh sạch, dẫu dưới gốc bùn đen sệt. Dọc
con đường bê tông, rộng chừng 1,2m, những ngôi nhà thấp thoáng giữa um tùm cây
trái. Nào ổi, nào xoài, rồi từng chùm quả siro đỏ chon chót. Hàng so đũa lấp ló
dâng quả như chào mời. Bên thẻo ruộng cạn, mơn mởn vạt rau dút non, ngỡ là cây
xấu hổ, mới đụng là cánh lá khép lại thật nhanh. Hái lên mấy đọt, mềm oặt như sợi
bún tưởng có thể ăn ngay được.
Nói đến Cần Giờ là nói đến rừng
Sác, vùng đất cổ xưa. Theo sách “Gia Định thành thông chí” thì đầu thế kỷ XIX,
Cần Giờ thuộc tổng Dương Hòa, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Tổng
Dương Hòa có 74 thôn ấp. Về địa danh Rừng Sác, sách chép: “Từ Tam Giang Nhà Bè,
xuống phía đông đến cửa Cần Giờ, phía bắc đến cửa Tắc Ký, phía tây đến Ký
Giang, trong khoảng ấy có đến trăm ngàn cồn bãi, các bãi ấy đều có rừng chằm cả.
Cây ở đó gọi là cây dà, đước, sú, vẹt và những cây tạp khác, rừng xanh cây rậm,
tán nhánh giao nhau, che kín mặt trời. Người ta dùng những cây ấy để làm nhà cửa,
rào giậu, cột cọc, than củi, không ngày nào ngớt. Còn hải sản như cá, tôm, cua,
sam và ốc len thì bắt dùng không hết mà cũng không ai ngăn cấm. Ấy là chỗ chí
công vô cùng của trời đất ban cho để nuôi dưỡng người dân Gia Định vậy”.
Thời Nguyễn, Cần Giờ là một trạm kiểm
soát đường biển “có cửa lạch sâu rộng, thuyền buôn ra vào yên ổn, là cửa biển tụ
tập đông đúc của tỉnh Gia Định” (Đại Nam nhất thống chí). Do vậy, không phải ngẫu
nhiên mà cửa bể Cần Giờ trở thành “yết hầu” cả về giao thương lẫn quân sự, nơi
chứng kiến sự sầm uất cũng như những trang bi thương trong lịch sử bởi các cuộc
thủy chiến giữa nhà Tây Sơn với các chúa Nguyễn. Tiếp đến ngoại bang xâm lược.
Sau 5 tháng bị sa lầy ở Đà Nẵng, Rigault de Genouilly liền chuyển hướng vào
Nam. Tháng 2-1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dùng 8 chiến thuyền vào cửa Cần
Giờ, lần lượt tấn công các đồn dọc sông Sài Gòn, rồi chiếm thành Gia Định… rồi thôn
tính cả Nam Kỳ lục tỉnh.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 bị thực
dân Pháp dìm trong biển máu. Ban lãnh đạo cho nghĩa quân phân tán nhiều nơi, một
số xuống rừng Sác. Nhờ có quyết định táo bạo này mà về sau, trong cả hai cuộc kháng
chiến, lực lượng cách mạng đều dựa hẳn vào yếu địa, để bám trụ và đánh giặc. Với
hàng trăm đảo triều lớn nhỏ, trùng điệp, và lủ khủ sản vật có sẵn từ sông nước
và đất đai, rừng Sác dư thừa điều kiện để trở thành một căn cứ địa tầm cỡ. Hàng
chục năm, Chiến khu Rừng Sác vẫn hiên ngang tồn tại ngay sát nách sào huyệt kẻ
thù.
Sinh thời, người chỉ huy của Đoàn
10 đặc công Rừng Sác năm xưa, Đại tá Anh hùng LLVTND Lê Bá Ước có lần khều tôi,
chú mầy biết hông? Nếu ví Sài Gòn như cái bao tử chiến tranh thì sông Lòng Tàu
là cổ họng, sông Soài Rạp và sông Thị Vải là hai động mạch chủ. Còn nếu Ô Cấp
(Vũng Tàu), Cần Giờ, Đồng Hòa, Vàm Láng là tứ nhãn ngó ra đại dương, thì rừng
Sác là pháo đài xáp chiến quân xâm lược.
Nhận rõ tầm quan trọng mang tính
chiến lược, từ đầu năm 1962, chính quyền Sài Gòn cho lập “Biệt khu rừng Sác” trực
thuộc khu 31 chiến thuật. Năm sau, thì nâng lên thành “đặc khu” thuộc Quân khu
3 về mặt lãnh thổ, nhưng mọi hoạt động quân sự ở địa bàn hiểm yếu này đều do
người Mỹ nắm quyền chỉ huy điều hành và thực hiện.
Về phía cách mạng, Đặc khu Rừng Sác
(T10), được thành lập từ tháng 4-1966, chia làm hai khu. Toàn bộ khu B nằm trên
địa bàn Cần Giờ. Tháng 1-1968, huyện Duyên Hải được thành lập. Địch phong tỏa,
bịt chặt sông Lòng Tàu, nên cán bộ, chiến sĩ ta khó lòng vượt sông bằng ghe
thuyền được, khu B gần như bị cô lập hoàn toàn. Kẻ thù dồn vũ khí và binh lực
quyết “làm cỏ và lột da rừng Sác, diệt gọn đặc công Đoàn 10”. Đến năm 1971, không
quân Mỹ đã rải gần 4 triệu lít chất độc khai quang (bình quân mỗi người dân ở
đây hứng chịu 166,6 lít); 42.000 hecta rừng bị hủy hoại. Quá trình sưu tầm tư
liệu cho cuốn sử Đoàn 10, tôi có được bản photo copy lời “tưởng thưởng” của Tổng
thống Richard Nixon dành cho đội tàu tuần tra đặc khu rừng Sác, lính thủy quân
lục chiến Hoa Kỳ. Bản dịch, trích đoạn: “Dành cho những anh hùng phi thường và
việc thực hiện xuất sắc trong hành động chống lại kẻ thù vũ trang ở Việt Nam cộng
hòa từ 24 tháng 6 năm 1969 tới 28 tháng 2 năm 1970. Trong suốt quãng thời gian ấy,
đội tuần tra đặc khu rừng Sác và trên mặt sông Sài Gòn… bằng sự kết hợp với các
lực lượng ở miền Nam Việt Nam, đã bắt đầu một chiến dịch độc đáo, tàn nhẫn bằng
các cuộc kết hợp tác chiến phản công…”. Ngần ấy đủ để minh chứng cuộc chiến giữa
các chiến sĩ đặc công thủy với kẻ thù cam go tới cỡ nào!
Sức chịu đựng của những người lính
vượt quá sức tưởng tượng. Mỗi tuần, một người chỉ được vài lon nước cất từ nước
mặn để gội đầu, mọi sinh hoạt còn lại đều dùng nước sông. Thiếu gạo, thiếu muối,
chỉ ăn cháo loãng với rau lìm kìm, hay nhai đọt chà là dằn bụng… Đương đầu với
3 đối thủ tầm cỡ trên sông Lòng Tàu là lính Mỹ, sóng to và cá sấu dữ, suốt 9
năm ròng rã, đặc công Rừng Sác đánh 740 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu
6.200 tên địch, nhấn chìm hàng trăm tàu xuồng lớn nhỏ.
Đầu tháng 12-2013, trong chương
trình giao lưu nghệ thuật “Hát mãi về Anh”, truyền hình trực tiếp trên VTV9,
tôi ngồi cạnh má Nguyễn Thị Trị (Hai Trầu) quê ở xã Bình Khánh, cơ sở cách mạng
chí cốt của đặc công Đoàn 10. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng, má Hai Trầu được
cử lên Sài Gòn trong vai người buôn chuyến, đưa trót lọt 4 chuyến dây điện theo
đường 15 về giao cho đơn vị. Lần thì má buôn thùng phuy, chuyến sau lại chở trứng,
hoặc dưa và khoai lang… Dây dợ được xếp từng cuộn tròn giấu dưới đáy thùng phuy
hoặc dưới các giỏ cần xé đựng hàng. Nhờ có dây dẫn tốt và đủ dài, má Hai Trầu
đã góp công sức lớn giúp Đoàn 10 đánh đắm tàu Baton Rouger Victory tải trọng
10.000 tấn trên sông Ngã Bảy.
Cùng dự đêm giao lưu có cựu chiến đấu
viên Hồ Xuân Cảnh (ngụ ở xã Thạnh An, Cần Giờ). Ông kể, nhận lệnh cấp trên trước
đó cả tháng trời, tổ trinh sát đặc công bí mật ra đào hầm bên bờ sông Lòng Tàu.
Tới khi nhận tin tình báo biết chính xác lịch trình của kẻ địch, sau nhiều lần dò
độ nông sâu của nước và tính toán cụ thể, ông Cảnh cùng các đồng đội (Tấn, Hiếu,
Tư) vần 2 quả thủy lôi sừng chạm, mỗi quả nặng 1.075kg vào vị trí đón lõng tàu
địch. Bất chấp bầy trực thăng vũ trang lồng lộn vãi đạn “dọn đường” và 4 chiếc
tàu quét mìn rà cặp hai bờ, cả tổ vẫn im lìm ém kỹ.
8 giờ 15 phút ngày 23-8-1966, khi con tàu đồ sộ như tòa nhà di động sơn lá cờ 50 ngôi
sao ngạo nghễ xuất hiện đúng tầm, kỹ thuật viên liền điểm hỏa. Hai tiếng nổ
lộng óc, cột sóng dựng cao như núi, lửa trùm lên nhấn chìm con “thủy quái” xuống
đáy sông. 100 xe tăng, 3 máy bay phản lực, hàng trăm khẩu pháo cùng hàng ngàn tấn
lương thực, thực phẩm trên tàu bị phá hủy. Chiến công vang dội của trí thông
minh, sáng tạo và lòng quả cảm vô bờ bến, đã giáng một đòn choáng váng vào mưu
đồ của kẻ xâm lược! Căn cứ lòng dân Cần Giờ là điểm tựa vững chắc để bộ đội đặc
công Đoàn 10 trụ vững, đánh giặc. Vậy nên không có gì lạ, khi một huyện chỉ có
7,5 vạn dân (gấp hơn 3 lần thời chiến tranh), với 7 đơn vị hành chính, đã có tới
3 xã cùng với huyện được tuyên dương Anh hùng LLVTND và 111 Bà mẹ Việt Nam anh
hùng.
Nhưng ví thử, nếu chỉ biết “gậm nhấm”
quá khứ hào hùng mà không biết tự lực, tự cường, vươn lên làm giàu vì lợi ích của
người dân, thì phỏng có ích gì?
Là một địa phương nghèo, lại gánh
chịu hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh, sau ngày non sông liền một dải,
huyện Duyên Hải vẫn trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Rừng Sác xác xơ trơ trụi, thảm thực
vật, động vật dưới tán rừng, các loài thủy sinh biến mất; hệ sinh thái môi trường
bị biến đổi nghiêm trọng. Một số chuyên gia nước ngoài, trong đó có các nhà
khoa học Mỹ dự báo ít nhất phải cỡ 100 năm nữa mới hy vọng phục hồi được rừng
ngập mặn.
Tháng 12-1978, huyện Duyên Hải được
sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Lo cái ăn, cái mặc tạm ổn cho dân, những
người lãnh đạo nghĩ đến rừng. Thật kính nể tầm nhìn chiến lược không kém phần
lãng mạn và tâm đức của ông Võ Văn Kiệt, người đứng đầu Đảng bộ thành phố lúc bấy
giờ, về việc khôi phục lại rừng ngập mặn. Nó vừa giải quyết được công ăn việc
làm trước mắt cho người dân, vừa hướng tới những mục tiêu cơ bản và lâu dài, tầm
quốc gia. Từ việc tổ chức đi mua giống cây đước tận chót mũi Cà Mau, đến việc
thành lập các nông - lâm trường để tiếp nhận giãn dân nội thành, được thực hiện
đồng bộ. Huyện tổ chức ra quân trồng đước. Hàng ngàn người dân, bộ đội và thanh
niên xung phong, cơm đùm, cơm nắm, lội sình, dầm nước, cắm cây đước xuống, lòng
tràn trề hy vọng, “nhân định thắng thiên”.
Chỉ sau 4 năm kiên trì, bền bỉ, huyện
đã phủ xanh 28.000 ha rừng ngập mặn. Có rừng, môi trường được cải biến, các
loài thủy hải sản, chim chóc và muông thú kéo về sinh sôi, nẩy nở. Một vùng đất
chết trong chiến tranh, nay hồi sinh ngoài sức tưởng tượng của con người, trở
thành một lá phổi xanh của thành phố mang tên Bác Hồ. Cuối năm 1991, huyện trở
lại với tên gọi Cần Giờ.
Điều kỳ diệu là năm 2000, rừng ngập
mặn Cần Giờ được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên ở
Việt Nam. Vùng đất nghèo thay da đổi thịt từng ngày, giao thông thủy, bộ phát
triển, các xã đều có điện công nghiệp, kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững,
đời sống người dân ngày càng khấm khá.
Mới đây, kết quả khảo cổ về kho báu
mộ chum tại di tích Giồng Cá Vồ (ấp Hòa Hiệp, xã Long Hòa, Cần Giờ), được xác định
có niên đại khoảng 2.500 năm đến trước Công nguyên, các nhà khoa học coi đây là
một di tích nền hình thành nên văn hóa Óc Eo của vương quốc Phù Nam xửa xưa…
Với sự hấp dẫn nhiều mặt, trong một
tương lai gần, sẽ có một cây cầu hiện đại thay cho phà Bình Khánh. Kế đến, là
hai dự án lớn làm nức lòng phấn khởi của người dân. Ấy là cảng trung chuyển quốc
tế Cần Giờ gần 6 tỷ USD và khu đô thị lấn biển hơn 9 tỷ USD, được kỳ vọng là
bàn đạp để huyện đảo này thay da đổi thịt. Được biết, cảng Cần Giờ dự kiến tạo
ra 8.000 việc làm, còn khu đô thị lấn biển sẽ thu hút gần 30 vạn người đến sinh
sống (gấp 3 lần dân số Cần Giờ hiện tại), cùng hơn 9 triệu du khách mỗi năm. Hiện
tại, dự án khu đô thị đã được Chính phủ phê duyệt, Thành phố Hồ Chí Minh đang
thẩm định và điều chỉnh quy hoạch diện tích. Với bấy nhiêu thôi, thì vùng đất bom
cày đạn xới năm xưa sẽ là nơi cực kỳ đáng sống! Nói một cách hình tượng thì Cần
Giờ, một địa phương đến phân nửa diện tích là rừng ngập mặn, có sông, có biển
và có phố thị… sẽ cất cánh. Ngắm biểu trưng chim bồ câu mang dáng hình Cần Giờ giang
cánh đủ nói lên tất cả.
Nghe giới thiệu, sân chim Vàm Sát
có khoảng 2.000 cá thể với 26 loài. Rồi cơ man nào heo rừng, mèo rừng, chồn,
rái cá, trăn, rắn… cùng nhiều loài thú đã xuất hiện trên khắp các gò đất cao
trong rừng ngập mặn. Cả đoàn ghé thăm đàn khỉ đuôi dài, nghe nói cả ngàn con, rồi
đám cá sấu to vật...
Người nọ bám gót người kia khi lội
bộ len lỏi trên con đường nhỏ lát bê tông ẩm ướt rong rêu bám đầy, xuyên dưới
tán những cành đước giao nhau che kín vòm trời, miệng nhắc nhau cẩn thận, đề
phòng ai đó mải ngó nghiêng, mắt dán lên cây, e trượt té. Dẫu đôi chân đặt bước
nào cứ phải miết chắc nền đường, trong đầu tôi chợt nẩy câu ca dao: “Mắm trước,
đước sau, tràm theo sát. Sau hàng dừa nước, mái nhà ai”.
Chị chủ nhà trạc ngoài 30 tuổi xởi
lởi nhặt đưa một túm trái, bảo tôi cầm lấy, quà của rừng ngập mặn chỉ bấy nhiêu
thôi… Và khi tôi viết những dòng này, thì đám mầm đước đã không “chê” đất mới,
mà bám rễ, trổ lá kép và lên xanh.