Người yêu nhạc lại mất đi thêm một nhạc sĩ thuộc hàng
tiên phong của dòng tân nhạc Việt Nam. Đó là nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, tác giả của
ca khúc bất hủ “Trăng mờ bên suối” nằm lại trong tim nhiều thế hệ trong gần 80
năm qua.
Người viết Trăng Mờ Bên Suối đã ra đi
NGUYỄN PHÚ YÊN
Ông đã giã từ chúng ta vào ngày 19/5/2023 tại quận 5,
Paris, thượng thọ 93 tuổi. Đáng tiếc, do có ít mối liên lạc nên mãi gần đây,
công chúng trong nước mới biết tin về sự ra đi của ông.
Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác.
Đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông sinh ngày
5/5/1930, tại Huế, trong một gia đình có 9 anh em. Ông có người anh là đạo diễn
điện ảnh nổi tiếng Lê Mộng Hoàng, tác giả bộ phim “Nắng chiều” với sự góp mặt của
hai tài tử gạo cội là Hùng Cường và Thanh Nga.
Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng
Phú Xuân, rồi vào học Trường tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Ông học
rất giỏi. Thi tuyển vào Trường Trung học Khải Định, ông là một trong ba người đỗ
đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm
1950. Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ. Năm 15 tuổi, trong
một cuộc thi văn chương học sinh trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng
và đạt giải thưởng Hoàng đế Bảo Đại. Cũng năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu
tay "Xuân tươi" (dưới bút hiệu Lan Đào, là tên 2 người em gái của một
người bạn thân thiết, anh Trần Đình Bá):
“Xuân về chào đời, ngàn thắm tươi, Xuân về đầy lời
tràn núi sông, hát vang trong bao nhiêu lòng, chào quốc gia, mừng hát ca đời thắm
hoa...”.
Lời nhạc trong sáng, đầy tính ngợi ca, đúng là hình ảnh
của một thời thanh xuân êm đẹp. Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà
báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật giáo Văn tập, Quốc gia, Việt Nam
Tân báo, Đường mới. Ông viết từ nhạc vui mạnh, phấn chấn như trong bài “Vó ngựa
giang hồ” (1948) mang nhịp điệu oai hùng của những người con lên đường kháng
chiến chống Pháp:
“Đường trường gió sương gập ghềnh vó câu ào ào lá rơi/
Đem thân nam nhi hồ hải đó đây rèn nung chí trai/ Bao nhiêu tiết thu chờ mong
chúng ta vùi lấp máu tang/ Vương khắp nhà Nam...”.
Đến nhạc buồn lãng mạn (vì hoàn cảnh chiến tranh và những
cuộc tình dang dở) và để tiếp nối cảm hứng của các tác giả mà ông yêu mến như
Văn Cao, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Anh Việt...
Những ca khúc ông sáng tác trong những năm 1948 - 1950 đều sang trọng, thơ mộng,
lãng mạn, ca từ rất trau chuốt, hơn nửa thế kỷ sau người ta vẫn còn ưa thích,
như “Nhớ Huế”, “Bài thơ Huế”, “Mỵ Châu Trọng Thủy”, “Trăng mờ bên suối”...
Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt
Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường
Âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa
học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences
Economiques).
Tuy vậy, trong mấy năm đầu cho đến 1954... ở Paris, ông
vẫn tiếp tục sáng tác, có nhiều bài diễn tả nỗi lòng cô quạnh của một người
trai trẻ sống trên đất khách, xa nhà, xa quê hương và người yêu dấu. Nhớ nhà và
ân nghĩa sinh thành, ông viết bài “Lá thư cho mẹ” và bài “Tìm lại ngày xưa” để
tặng hương hồn thân phụ quá cố. Tình cảm và lãng mạn nhớ nhung, ông có bài“Tha
hương” (viết đêm 11/12/1950, hai tháng sau khi ông đặt chân xuống phi trường
Orly, Paris ngày 5/10/1950), với cung ré mineur nhưng chưa đặt lời... Rồi bài
“Xuân tha hương rất buồn não”...
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông tiếp tục viết nhiều
ca khúc thân phận, vọng về cố quốc như: “Sông Seine, bao giờ ta về nước Nam”,
“Kiếp giang hồ”, “Xuân về nhớ mãi quê hương”, “Bụi đời” (cảm đề phim do Lê Mộng
Hoàng đạo diễn). Gần đây ông vẫn viết, vẫn vương vấn trong tâm hồn một cảm thức
quê nhà - ngày cũ: “Quê tôi”, “Chiều vàng năm xưa”... Ngoài ra còn phải kể thêm
các ca khúc “Thu trên sông Seine”, “Giao mùa”, “Thề non nước” là những bài thơ
của Vương Thu Thủy, Phạm Ngọc, Tản Đà được ông phổ nhạc.
Lê Mộng Nguyên là một người tài hoa, một trí thức lớn.
Năm 1954, ông tốt nghiệp Cử nhân Luật. Từ năm 1955 - 1958, ông được mời làm tùy
viên kinh tế và xã hội của Tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris (Attaché
économique et social près l'Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ
Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học, thi đậu để được
hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d'État) với ba
bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi
hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit
constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại một Trường Đại
học miền Đông nước Pháp. Năm 1985, ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học
Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu vào năm 1997.
Trong thời gian này, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc,
nhưng không phổ biến. Ông ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại
Pháp. Ông cũng cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt
san Nghệ thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.
Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ
người Pháp vào ngày 8/1/1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu
tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại
Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.
Ngày 5/12/1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện
Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d'Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu
Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được
xuất bản, những công trình nghiên cứu xuất sắc trong công cuộc phát triển văn
hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật cho nhân loại của những quốc gia hải ngoại
trong khối Pháp ngữ. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu
làm hội viên chính thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn
lâm viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên. Trước đó, đã có một
số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm
Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) như Thái Văn Kiểm.
Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chính thức tự do (membre titulaire libre),
có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ
phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn lâm viện.
Nhạc phẩm nổi tiếng nhất của Lê Mộng Nguyên “Trăng mờ
bên suối” được viết năm 1949 khi ông mới 19 tuổi. “Trăng mờ bên suối” nói lên nỗi
lòng của tác giả khi nhớ người yêu, nhớ sông Hương núi Ngự trước khi lên đường
sang Pháp du học. Trong một bức thư trả lời một người bạn, Lê Mộng Nguyên viết:
"Bài "Trăng mờ bên suối" viết ngày 13/11/1949 (tôi còn giữ bản
thảo), một buổi chiều không mưa ở nhà một mình tôi ở Huế (đường Gia Long), với
cây lục huyền cầm Y Pha nho, vừa nhạc vừa lời song song với nhau, rất mau lẹ (từ
20 đến 30 phút là xong), trong một cuốn vở có phân ly (papier millimétré) đầy
ký chú những bài học lý hóa ở trường Khải Định":
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối/ Rừng chiều mờ sương
ánh trăng mờ chiếu/ Một đêm thiết tha rồi đây xa cách/ Đường chia hai ngả biết
tới phương nào…
Tuy được viết vào cuối năm 1949, nhưng “Trăng mờ bên
suối” được xem như một ca khúc tiền chiến và đã trở thành bất hủ của tân nhạc
Việt Nam. Nhạc sĩ, ca sĩ Thu Hồ là người hát “Trăng mờ bên suối” đầu tiên trên
đài phát thanh Pháp Á năm 1949. Sau này ca khúc cũng được các ca sĩ Lệ Thu, Bảo
Yến thể hiện rất thành công. Lê Mộng Nguyên cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên
sáng tác về Huế, miền Trung, ca tụng nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Ngoài những
nhạc phẩm có tính cách tranh đấu như “Vó ngựa giang hồ” (1948), hay “Mùa lúa mới”
và “Trường ca Quân tiến”. Từ thời thiếu niên Lê Mộng Nguyên đã sáng tác nhiều
ca khúc lãng mạn để tiếp nối cảm hứng của các tác giả đàn anh mà ông yêu chuộng.
Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm chính luận khác và tập thơ “Đời không có
em” (1980)…
Sự ra đi của ông cho ta nhìn lại và tri ân một thế hệ
nhạc sĩ tài hoa đã đóng góp phần mình cho nền tân nhạc Việt Nam.
Nguồn: Văn Nghệ Công An