Chưa được thành người giải quyết nhưng nêu vấn đề đã
là điều quan trọng. Ở thời đại chúng ta, nêu được vấn đề thì chắc chắn sẽ có
người tìm ra giải pháp. Đó là thành công của hướng thơ Lâm Thị Mỹ Dạ...
THÔNG ĐIỆP GỬI TƯƠNG LAI
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Năm 1973 kết thúc cuộc thi thơ trên tuần báo Văn nghệ,
ban giám khảo đã tặng đồng giải nhất cho bốn tác giả đều đang tuổi thanh niên.
Ba nam đều là bộ đội, đang ở chiến trường B (Miền Nam): Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn
Duy, Hoàng Nhuận Cầm và một nữ, Lâm Thị
Mỹ Dạ. thì cũng ở tuyến lửa ác liệt nhất Miền Bắc, Quảng Bình. Cả bốn bạn ấy, sau này đều vượt lên, trở
thành những gương mặt tiêu biểu của lứa nhà thơ thời đấu tranh thống nhất đất
nước.
Riêng với chị Mỹ Dạ, bài thơ khá nhất trong chùm được
giải, Khoảng trời hố bom, như một khởi đầu thuận lợi ít ai có: được bạn
đọc hồ hởi đón nhận, nhanh chóng vào sách giáo khoa (lớp năm). Lâm Thị Mỹ Dạ được
các nhà thơ tài năng từ trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống
Pháp, hiện đang cầm trịch thi đàn, quan tâm, bồi dưỡng.
Đặc biệt những cây bút cùng thế hệ chị, sau này gọi gọn
là lứa nhà thơ chống Mỹ, thì ân cần với Dạ như chăm sóc một cô em út từ bom đạn
trở về. Mỗi lần Mỹ Dạ ra Hà Nội thì các bà chị lo chỗ ăn chỗ ngủ, các ông anh dẫn
thăm thành phố, ăn kem bờ hồ. Mỹ Dạ thì ngơ ngác chim chích lạc rừng. Tính hiền
và thơ cũng hiền.
Khi ấy rất ít người biết Mỹ Dạ học xong trung học,
không được học đại học. Cha đi Nam, ông nội địa chủ, mẹ bị nghi ngờ. Cái
lý lịch ấy làm nên thân phận chị. Chị đi bán hàng với mẹ, đi cấy thuê, rồi chắc
do có thơ đăng báo, nên được vào làm ở Hội văn nghệ tỉnh, nơi có ông thủ trưởng
là một nhà thơ đàn anh có lòng thương tài. Mỹ Dạ được nghề nghiệp cưu mang nhiều
và chị xứng đáng với niềm cưu mang thương mến ấy. Chỉ sau ngày đất nước
thống nhất, cha chị được nhà nước tặng bằng khen về thành tích hoạt động bí mật
trong lòng địch, chị mới thật sự được thanh thản làm văn chương.
Bài thơ “Khoảng
trời hố bom”, có
thể coi là bài mở nghiệp cho Mỹ Dạ, nhập tịch chị vào giới văn chương cả nước.
Tình cảm chân thành, cách nhìn đời trong sáng và đặc biệt đã sớm bộc lộ một
năng lực cấu tứ sáng tạo, sau này chính nó thành “đặc điểm nhận dạng” thơ Mỹ Dạ…
Đề tài đánh giặc thành mảng thơ chủ lực trong chặng đầu
sáng tác của nhà thơ trẻ Quảng Bình này. Chị đánh giặc với một trái tim phụ nữ.
Thời sự chiến tranh đi qua trái tim chị mà in lên trang giấy, thành thơ. Nhiều
nét đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và tâm hồn con người đã hiện diện trong thơ
chiến tranh của Mỹ Dạ. Viết chiến tranh bằng nỗi nhớ hòa bình. Ngay trong chặng
thơ đầu đời, cách vào thơ như thế đã cho thấy rõ khuynh hướng nội tâm của thơ Mỹ
Dạ. Lấy dấu vết của chiến tranh, của ngoại giới in trên trái tim mình làm nơi
tìm thơ. Việc ngoài đời thành việc của lòng mình. Học cách Nguyễn Du viết Kiều, đọc Kiều mà
ta thấy nỗi lòng Nguyễn Du. Dùng được thi pháp ấy phải có một năng khiếu “nhập
thân”, cái thứ như trời cho. Không phải chỉ học mà thành…
Khuynh hướng ghi nhận hiện thực của đời bằng tâm trạng
mình đã chuyển dần, tiệm tiến nhưng khá nhanh, cách tìm thơ của Mỹ Dạ từ ngoại
giới vào chính nội tâm mình. Tôi xin được lần theo hai tập thơ Đề tặng một
giấc mơ (1998) và tập Thơ tình (2008) để lần ra những trải nghiệm
và đổi thay trong thơ chị, trong đời chị. Tôi đã gặp một Mỹ Dạ khác, giọng thơ
trong trẻo đơn tuyển nay trầm xuống trong niềm khắc khoải đa thanh. Cách nhìn lạc
quan có phần đơn giản thường thấy trong thơ cố võ động viên thời chiến nay là
những phát hiện, những tự vấn từ chính lòng mình. Những góc ẩn khuất của tâm hồn
trong cõi riêng tư duyên phận hay cuộc đời của kiếp người dâu bể từ bà cựu
hoàng hậu đến người dân thường phiêu bạt… Vô tình mà tất yếu. Tôi chẳng
còn tôi xưa/ Thơ đã già hơn tuổi... Bi kịch của đời mình thành hài kịch của
thiên hạ... Có khi nó như lưới vây ta trùng điệp “Bây giờ chỉ một mình ta/ Một mình ta với
bao la một mình”... Có khi nó đã thành khí quyển của
đời ta. Không có nó, có khi không sống được…
Bốn câu cuối của bài thơ về người đàn bà mặc áo choàng
đen như mặc màu khâm liệm đang đi trong gió xuân. Không biết có phải vì gió
xuân không mà ngẩng đầu tự hỏi;
“Mình
tự chôn mình
ngu ngốc làm sao
Hãy ngước nhìn trời cao và sẽ thấy
Xuân còn đầy run rẩy, nôn nao”
Tập thơ tình cho thấy nhiều đỉnh cao và vực sâu, nhiều
gió nồm và gió bấc trong duyên và phận nơi cô Dạ thuở nào và bà Lâm gần đây.
Lúc hương gây mùi nhớ, lúc tạ từ không dứt được… Một cuộc tự khám phá lòng
mình, đời mình, tình thế của mình. Thơ như tự thú. Tôi thú nhận rằng tôi
đã sống. Đấy là một đề sách của nhà thơ cách mạng, người Chi lê, Pablo Néruda.
Đọc thơ tình Mỹ Dạ, tôi như gặp chủ đề ấy trong mỗi bài. Phải chăng yêu đã là một
thú nhận rồi.
Chưa được thành người giải quyết nhưng nêu vấn đề đã
là điều quan trọng. Ở thời đại chúng ta, nêu được vấn đề thì chắc chắn sẽ có
người tìm ra giải pháp. Đó là thành công của hướng thơ Mỹ Dạ: thông điệp gửi
tương lai…