Vũ Thiên Kiều lúc nào cũng cười thật tươi, mau mắn và
lí lắc nhưng đủ thông minh cũng như đủ khù khờ trong tất thảy các câu chuyện
văn chương.
VŨ THIÊN KIỀU du
ca ấy như thời gian thơm thảo
PHÙNG VĂN KHAI
Vũ Thiên Kiều là một cây bút trẻ trung, sung sức ở
Kiên Giang. Thân gái dặm trường, cô gái quê lúa xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình từng là học sinh giỏi Văn toàn quốc năm 1985 bây giờ đã đằm thắm
dịu dàng dân mến dân thương trong Ban Dân vận huyện Hòn Đất nơi biên giới Tây
Nam Tổ quốc. Không ai nghĩ Vũ Thiên Kiều đã vào độ tuổi năm mươi càng không ai
nghĩ Kiều đã đạt nhiều giải thưởng văn chương uy tín, xuất bản các tập thơ dày
dặn ngân vang, viết những truyện ngắn thăm thẳm nỗi người mà câu văn xanh thắm.
Chúng tôi, các nhà văn quân đội có việc gì đất phương
Nam thường lập tức tìm tới Vũ Thiên Kiều. Khi là mời nàng thơ đi trại viết như
một thỏi nam châm hút các anh chàng Bắc - Trung - Nam hào hứng tới trại; lúc
giao cho Kiều nhiệm vụ kết nối, thực hiện những thao tác của Ban Tổ chức, Kiều
đều xuất sắc hoàn thành. Kiều dẫn chương trình trong các cuộc tọa đàm, giao lưu
đều ân tình, sáng tạo. Kiều đọc thơ cho bộ đội nơi tận cùng biên giới cháy hết
mình như ngọn lửa tuổi đôi mươi...
Vũ Thiên Kiều là vậy, nàng thơ Hòn Đất - Kiên Giang
luôn cống hiến hết mình cho thi ca, bè bạn và cuộc sống. Mười năm không gặp vẫn
như in một tấm lòng không suy suyển. Gặp mặt hôm trước hôm sau điện thoại từ xa
hay trò chuyện thật gần vẫn là một Vũ Thiên Kiều đắm say, mới mẻ và đầy tin yêu
cuộc sống. Bởi vậy chăng mà thơ Vũ Thiên Kiều luôn dài rộng, mênh mang: Trên đỉnh
dốc xông xênh nắng gió/ ngời ngợi sắc xuân/ có chút nào trầm tư về chân dốc/
thuở mồ hôi bầu bạn những âu lo... (Đỉnh dốc); nhưng rất suy tư: Giọt mồ hôi
túa trên gương mặt người thợ/ nhúm méo mặt đời cho phẳng phiu từng phiến đá/
vuông thành sắc cạnh/ dịu êm xinh lối nhỏ (Lòng đá); còn vô cùng tinh nghịch:
Dông dốc sông Văn/ lồng tồng bụng chữ/ áo ngủ sấn khuy cài... người về thánh
thót chiều chuông/ nết dạ nết làng/ vân vân giếng nước (Điềm sen); mới mẻ đầy
chiêm nghiệm: Chiếc bánh luộc bằng lửa nhớ/ đỏ than đếm hơi thở em/ cuộn chăn một,
hai, ba/ mớ hoa giấy cười đêm sang ngày (Ngụm nước nằm ngang); và ngang tàng
thanh thoát: Ánh mắt anh nhốt nắng quái ngang đường/ sương nâng đôi chân mềm
em/ bay bay mùa mật... ánh mắt anh bời bời cầu Ô Thước/ cát cuộn bụi tròn/ đôi
sam dìu nhau (Mật mùa)...
Thơ Vũ Thiên Kiều như cuộc sống của chính con người Hòn
Đất - Kiên Giang. Mà rộng hơn, mông mênh hơn bởi những đắng cay cuộc đời không
một riêng ai mà tất cả chúng ta thảy đều phải đón nhận. Vũ Thiên Kiều lúc nào
cũng cười thật tươi, mau mắn và lí lắc nhưng đủ thông minh cũng như đủ khù khờ
trong tất thảy các câu chuyện văn chương.
Hôm gần đây thôi, khi gặp nhà thơ Hoài Vũ ở Sài Gòn,
tôi cứ tưởng nhắc đến Vũ Thiên Kiều chắc gì tác giả Hương tràm, Vàm Cỏ Đông,
Vàm cỏ Tây... biết tới bậc hậu sinh mà ông lại rất rành thơ của Kiều còn bảo
các nhà thơ trẻ, nhất là các nữ nhà thơ đất phương Nam hiện nay tài tình lắm.
Tôi im lặng bởi những gì không nói ra cũng là cần thiết. Như thi ca cũng vậy,
chớ có nói hết ra. Ví như là Phơi lá đỏ mong mùa đựng chín/ ruột nối một dây/
căng/ đứt đoạn giữa chừng (Búi chổi mắt anh); Nôi thở trong váng đèn dầu đỏ/ mầm
tre chồi lên từ gò đất/ mẹ sinh em (Sấm chớp phù sa); Anh về đầy chén cơm hơn/
trăng non/ già/ khuyết/ dỗi hờn.../ mặc trăng (Anh về)... thì rõ ràng những gì
chưa nói hết ra mới là ngân vọng vậy.
Tôi đã từng được làm “học trò” của Vũ Thiên Kiều với
tư cách học viên hẳn hoi, thi cử hẳn hoi. Cuộc ấy chỉ có một học viên và tôi chỉ
thi với chính mình mà chánh chủ khảo là Vũ Thiên Kiều. Cuộc ấy ở trại viết Đồng
Tháp do tôi là trại trưởng. Tôi tự thi với chính mình. Tôi bảo: “Kiều ơi! Một
trại trưởng, một trưởng ban Thơ như mình mà không làm thơ còn mặt mũi gì nữa.
Cuộc này thím phải giúp ta mới được”. Vũ Thiên Kiều tưởng tôi giỡn chơi bèn
nói: “Không! Anh cũng có vẻ biết làm thơ thật đấy. Hôm bọn em đưa chùm lục bát
lên trang cũng có dăm bảy cụ lão tám, chín mươi bình phẩm ra trò”. Tôi nghiêm
ngắn: “Thím đừng có mắng ta tội nghiệp. Cuộc này xa bia rượu vợ con tất thành
chính quả thơ ca”.
Hôm sau, tôi gửi chánh chủ khảo Vũ Thiên Kiều bài thơ Hỏi sen: Sen ơi, sen
bao nhiêu tuổi/ mãi thơm sâu nụ hôn đầu/ Sen ơi áo ta sao bạc/ mồ hôi ủ vết
chân trâu/ Tơ vạc tàn ngày mưa lạnh/ âm thầm nhóm lửa mặt sông/ Tóc đèn tận đêm
ngậm bóng/ kín nỗi sương sa trùng trùng/ Tiếng hót vun chân trời hoa/ hồn nụ tượng
hình mấy trắng/ Hàng cây âm âm đội sóng/ trang nghiêm lệ mạn mạn thuyền/ Vách
đá trĩu câm vai biển/ khô khuya gõ vết sông bầm/ Nỗi hỏi vang sâu thinh lặng/
cao xanh một giọt sen buông.
Giám khảo Vũ
Thiên Kiều
đọc rất kỹ, trầm ngâm rồi trang nghiêm phán: “Hỏng! Thơ của ai chứ không phải của
anh. Chung chung quá. Chữ nghĩa vặn vẹo quá”. Ngày
hôm sau, tôi lại trình giám khảo Vũ
Thiên Kiều
bài Thơm sen: Mười ba tuổi/ tắm ao sen/ em ửng áo cầu ao/ sen nghiêng bẽn lẽn/
Mười tám tuổi/ tạ sen vào tiếng súng/ em hẹn dấu chim trong/ lấm tấm cau mừng/
Mười năm đằng đẵng sen khuya/ thức xanh hương nhụy/ Anh về - tấm giấy/ tiếng mõ
chùa tự bấy thơm sen.
Lần này thì cô giáo Vũ Thiên Kiều hơi ngước mắt lên thong thả nói:
“Tạm được! Bắt đầu có ý tứ nhưng nhất định phải cố lên”. Tôi không tự ái. Thế là may mắn lắm rồi.
Làm văn chương hơi tí tự ái chỉ là xách dép cho thiên hạ.
Ba ngày sau, tôi lại trình ra bài Sen cởi áo: Hé chồi
nghiêng lung/ Mưa mừng chấp chới/ Chúm chím hương bung/ Xanh ngần tơ tuổi/ Bung
biêng đá sỏi/ Thắm thẹn then xanh/ Lụa gầy thức nhụy/ Chớp lóa gõ cành/ Riết phồng
ngát ngọt/ Gió nhức mùa non/ Trăng mưng tở mở/ Núm thơm nghiên son/ Nhiên trong
tơ tóc/ Buông cởi sơ sương/ Ngực hoan khỏa khép/ Muốt bờ mây vương.
Quá tam ba bận, giám khảo Vũ Thiên Kiều lần này biết rằng
không khen “học trò” cũng không ổn bèn căng mắt nhìn mãi rồi bảo: “Cái câu Núm
thơm nghiên son có vẻ đường được. Từ rày trở đi, anh hoàn toàn có thể làm thơ”. Cuộc ấy với tôi quả là một thử thách nhớ đời.
Vũ Thiên Kiều đến với thơ nghiêm túc còn có phần
nghiêm khắc với chính bản thân mình. Phải vậy chăng mà chặng đường bền bỉ ba
mươi năm không chút hụt hơi càng đi càng xum xuê gốc cành hoa lá. Vô số những
quả chín mùa yêu hạt vàng siêng nhặt đã đậu xuống hai vai Vũ Thiên Kiều. Nào
riêng gì những rong chơi mới nên cơ nghiệp mà chính yếu là sự làm lụng, chắt
chiu, thương buốt đến tận cùng mỗi cánh hoa rơi. Thơ Kiều tình ẩn đằng sau chữ,
nghĩa mở mang từ những đóng khép câu từ. Có những câu đọc thấy tưng tức mà đọc
đi đọc lại thấy thực là mới chữ mới nghĩa cũng là một cách đóng góp của nàng
thơ. Ở những chỗ như vậy chớ có lườm nguýt so sánh làm gì. Đời người đời văn
chương vốn dài dằng dặc sá gì câu chữ gập ghềnh đôi lúc đánh đố nhau cũng là mến
yêu nhau vậy.
Đừng tưởng Vũ Thiên Kiều không dám viết những khúc thơ
dằng dặc miên man. Để đưa ra những thông điệp có ích cho đời sống dưới con mắt
thơ, Vũ Thiên Kiều đã dám tự mình làm nhà triết học một cách khúc chiết ngọn
ngành lắm: Kiến không có cánh để bay. Dường như nó hiểu mỗi cuộc du hành thì
xác suất của sự an toàn trở về tổ là rất thấp. Thế nên, nó miệt mài tìm những
con đường ngoằn nghèo thậm chí là có địa hình hiểm trở để mỗi lần ra đi lại
nguyên vẹn ngày trở lại...
Nếu lúc xuất hành ra đi gian khổ một thì nẻo về còn
khó khăn vất vả gấp trăm lần. Kiến phải gồng mình lên để kéo hạt gạo đi theo hướng
giật lùi, kéo chán thì đẩy, đẩy chán lại ngoạm ngang eo hạt gạo mà tiến. Đây thật
sự là một cuộc chiến thử thách tính kiên trì của Kiến. Vừa thồ vừa quan sát chọn
lối đi an toàn cho tính mạng và tài sản vừa nhặt được. Cứ thế cứ thế Kiến đi.
Có ai đồng hành cùng với Kiến? Có ai nhìn thấy nó lúc hoàn thành sứ mệnh khi đặt
chiến lợi phẩm nằm gọn trong tổ. Rồi như không biết mệt mỏi, cũng không kể lể
báo cáo thành tích, nó lại âm thầm hối hả với chuyến tiếp theo. Một câu hỏi chợt
nảy ra: Kiến có ngủ không nhỉ? Chỉ thấy nó rất cần mẫn lao động, cần mẫn lao động
một cách đáng nể. Và sự nỗ lực của những bàn chân, bàn tay bé xíu như không thể
bé hơn được nữa đã viết lên câu ca dao để đời mà ai cũng thuộc lòng: “Kiến tha
lâu đầy tổ” (Con đường của Kiến).
Đó chính là một du ca - du hành chữ nghĩa thảo thơm đầy
đặn lắm thay.
Đó cũng là những định luận ngàn đời không bao giờ
ngưng nghỉ.
Đó cũng là một trở về trong một ra đi.
Như một trở về trong một ra đi, thơ và nàng thơ Vũ Thiên Kiều đã không là của riêng ai đơn nhất nhưng cũng thật riêng của chính Kiều. Một trở về trong một ra đi, du ca ấy như thời gian thơm thảo trong những hạt vàng siêng nhặt tháng năm.