Bản thân Lê Lựu đã là một nhân vật lớn trong bất kỳ một
cuốn tiểu thuyết nào của các tác giả khác, xung quanh con người và cuộc sống của
ông đã dệt nên bao giai thoại khiến cho người đọc, người nghe cười đến ngả
nghiêng, và đương nhiên ông luôn là nhân vật của chính bản thân ông.
LÊ LỰU – NHÀ VĂN CỦA NHỮNG TIẾNG CƯỜI
NGUYỄN THẾ HÙNG
Trong các cuộc đàm đạo văn chương chính thức và bán
chính thức, chúng tôi thường đặt cho nhau một câu hỏi giả định rằng: nếu vì một
lý do bất khả kháng nào đó, anh chỉ được phép cứu vội 10 cuốn tiểu thuyết đương
đại của các nhà văn Việt Nam thì anh sẽ chọn những cuốn nào? Mỗi người đều có
những đáp án riêng của mình, nhưng có một sự đồng thuận khá cao khi những cuốn
tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu; “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng; “Nỗi buồn
chiến tranh” của Bảo Ninh và “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường
luôn được ưu ái chọn lựa.
Và nhiều khi tôi cứ lẩn thẩn suy nghĩ rằng, nếu như nền
văn học nước nhà trong nửa cuối thế kỷ 20 không xuất hiện nhà văn Lê Lựu thì sẽ
ra sao nhỉ? Tất nhiên là sẽ không có “Người về đồng cói”; “Sóng ở đáy sông”; “Thời
xa vắng”; “Hai nhà”… Vâng nếu không có những cuốn sách ấy thì hình như sẽ có một
sự thiếu vắng rất đáng kể của nền văn học nước nhà, mà sự thiếu vắng lớn hơn đó
chính là thiếu vắng sự hiện diện của bản thân nhà văn Lê Lựu trong đời sống văn
học của chúng ta.
Bản thân Lê Lựu đã là một nhân vật lớn trong bất kỳ một
cuốn tiểu thuyết nào của các tác giả khác, xung quanh con người và cuộc sống của
ông đã dệt nên bao giai thoại khiến cho người đọc, người nghe cười đến ngả
nghiêng, và đương nhiên ông luôn là nhân vật của chính bản thân ông. Khi đã dám
đưa chính mình ra để làm nhân vật, để mà đắp lên mình bao “chiếc mặt nạ” để cho
người đời khóc cười với mình thì phải là một người có bản lĩnh và tài năng xuất
chúng bởi chưng rằng tâm lí chung của con người là “xấu che tốt khoe”, nhưng Lê
Lựu thì không thế.
Đã từ lâu trong giới phê bình học thuật thường hay
than vãn rằng văn học Việt Nam quá thiếu vắng sự hài hước, các nhà văn Việt Nam
viết nghiêm túc quá, điều đó đúng nhưng bản thân chúng tôi xét thấy chưa đủ, liệu
có phải chăng chúng ta đang quan niệm hài hước phải là tiếng cười bật ra đầu
môi? Cũng giống như làng hài kịch nước nhà hiện nay cũng lắm tiếng cười đấy chứ,
họ còn tự phong cho nhau là ông hoàng, vua hài… nhưng những tiếng cười “cù
nách” chỉ có giá trị nhất thời và đem lại tiếng cười quá dễ dãi cho lớp người
bình dân, nếu cứ kéo dài mãi thì chẳng góp được ích lợi gì trong việc nâng cao
trình độ kiến thức thưởng thức nghệ thuật của quần chúng, còn tiếng cười của những
nghệ sĩ hài thuở trước như Trịnh Thịnh, Trịnh Mai… nó còn sống lâu bền với thời
cuộc. Vì tiếng cười ấy mang đầy hàm lượng trí tuệ. Tiếng cười có thể không đến
ngay và luôn, nhưng tiếng cười còn ở mãi trong mỗi người xem khi nghĩ đến. Và
xét cho đến tận cùng thì hình như tiếng cười từ những bi kịch mới là tiếng cười
đọng lại sâu nhất trong lòng người đọc. Chúng tôi thấy được điều ấy ở trường hợp
của Lê Lựu.
Trở lại tiếng cười trong tác phẩm văn học, mỗi khi nhắc
đến yếu tố này, người ta nghĩ ngay đến “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, đúng là mỗi
câu văn của Vũ Trọng Phụng trong “Số đỏ” luôn gây cho người đọc những tiếng cười
với những trạng huống khác nhau, cười đấy và buồn đấy, cười đấy rồi khinh đấy,
cười đấy rồi khóc đấy… Nhưng tiếng cười của Vũ Trọng Phụng là tiếng cười “của một
ai đó ở ngoài tác giả” điều đó cũng tốt nhưng hình như nó vẫn chưa thấm bằng tiếng
cười của Lê Lựu và Nam Cao (ở đây chúng tôi không so sánh về giá trị nghệ thuật
của tác phẩm cũng như tài năng của các tác giả). Sở dĩ có nhận định như vậy là
vì hình như toàn bộ tác phẩm của Lê Lựu, ông đều “mổ bụng mình ra cho thiên hạ
xem”, những nhân vật chính trong những sáng tác của Lê Lựu đều là những Lê Lựu
''phẩy'' mà hiện hình lên trang sách. Ông đã biến mình thành nhân vật của chính
mình, đưa cái dị mọ nhôm nhoam của chính mình ra để diễu và người đọc qua nhân
vật của ông đã soi chiếu lại đời sống, soi chiếu lại chính mình và xã hội đương
thời.
Trường hợp này cũng xuất hiện ở nhà văn Nam Cao như
nhà văn Tạ Duy Anh đã từng nhận định: “Theo tôi, nếu đọc thật kĩ, sẽ thấy Nam
Cao mới thực là nhà văn hài lớn nhất của văn chương Việt. Dám mang mình ra để
cười nhạo, biến mình thành nhân vật hài rồi lồng vào đó sự phê phán thời đại,
chưa bao giờ là dễ dàng với bất cứ người cầm bút nào”. Nhưng qua khảo sát chúng
tôi thấy, cái sự “triệt để” ở Nam Cao vẫn chưa bằng Lê Lựu, nếu xem tác phẩm
"Chí Phèo" là đỉnh cao của sự nghiệp văn chương Nam Cao thì ở đó
chúng tôi thấy vẫn còn mờ nhạt thậm chí là thiếu vắng hình bóng của Nam Cao và
còn ở nhiều tác phẩm khác của ông cũng thế.
Nhưng chúng ta thử ngẫm lại xem, Lê Lựu đậm đặc trong
từng tác phẩm của ông, mà tác phẩm nào cũng có cái để cười, có cái để mà đau,
mà suy ngẫm. Đọc Lê Lựu ở từng câu, từng chữ thì sẽ ít gây cười, nhưng ở những
chi tiết, những trường đoạn và sau khi đọc kỹ, ngẫm kỹ sẽ gây cười. Ví dụ như
chuyện của anh Sài trong “Thời xa vắng” chẳng hạn. Theo sự chỉ đạo của tổ chức
- mà thực chất là một anh “đại diện” tổ chức - là Sài phải “kiên quyết cắt đứt
quan hệ với người mình yêu để “thực sự yêu vợ”. Hay đoạn viết về buổi họp gia
đình, bữa cơm khi nhà có khách, đám ma ông đồ trong “Thời xa vắng” được miêu tả
sống động và hài hước, tạo được một không khí “nhà quê” rất đặc trưng Lê Lựu.
Trong truyện “Đại tá không biết đùa”, Đại tá Hoàng Thủy để rèn luyện con, ông
đã yêu cầu Công an huyện cho Tùy đi tập trung cải tạo, tự xin hoãn đi học đại học
ở nước ngoài để làm công nhân, bắt con phải từ bỏ tình yêu với cô gái đã từng
yêu một người khác vì cho rằng “người ta đã bỏ được người thứ nhất cũng dễ dàng
bỏ đến người thứ một trăm”.
Lê Lựu có biệt tài đưa cái hồn nhiên, dân dã vào trong
tác phẩm và đặt tên nhân vật, tạo tình huống để có tiếng cười, mặt khác, ông
cũng có tài khi đưa vào tác phẩm những nhân vật ngớ ngẩn, duy ý chí, cứng nhắc
rập khuôn "ngu, ác một cách hồn nhiên” để tạo cho người đọc những tiếng cười
thâm sâu mà chua chát. Hay tình huống ông Tâm tốt tính, hiền lành nhưng nhu nhược.
Một ông Địa thâm trầm nhưng hèn hạ và độc ác ngấm ngầm trong “Hai nhà”. Thực chất
hai ông chính là hai mặt của một con người, nhưng cái trớ trêu ở chỗ dù hiền
lành hay độc ác thì cuối cùng cũng bị những người đàn bà lừa cho trắng mắt, dù
dân gian có câu: “Đàn ông nông nổi giếng khơi/ đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”.
Lê Lựu đưa ra một phản đề để người đọc suy ngẫm và cười và đau, cười chua chát cho
nhân tình thế thái, cho đạo lý, có tình yêu, tình nghĩa vợ chồng…
Từ trước tới nay khi nhắc đến Lê Lựu, không hiểu vì
sao người đọc và cả các nhà nghiên cứu thường ít nhắc đến cuốn tiểu thuyết “Hai
nhà” của ông. Theo cái sự đọc của chúng tôi, nếu đọc và ngẫm kỹ, chính tiểu
thuyết “Hai nhà” là “tập hai” của “Thời xa vắng” dù tất cả các nhân vật đều
khác tên, khác tuổi. Nhưng khi đọc ta sẽ thấy Tâm trong “Hai nhà” chính là Sài
trong “Thời xa vắng”. Tâm và Sài đều đánh mất bản thân, đều nín nhịn, chiều chuộng
vợ và cuối cùng đều bị phản bội. Kết cục của Tâm là hai đứa con mà anh dốc lòng
chăm bẵm đều không phải con đẻ của anh, cay đắng hơn, đứa con của một người bạn
thân chết oan trong trò gian dâm của vợ anh. “Hai nhà” và “Thời xa vắng” đều dần
mở ra những ô cửa sổ để người đọc khám phá căn nhà rộng lớn có tên Lê Lựu, tựu
trung lại là những bi kịch do chính con người tạo ra, những bi hài kịch do lòng
hận thù, ích kỷ, tham lam, dâm đãng, vô văn hóa của chính con người.
Cũng có thể do cái bóng của “Thời xa vắng” quá lớn nên
đã chen mất “Hai nhà” chăng? Hay vì văn phong của “Hai nhà” khác với văn phong
của Lê Lựu vốn có? Trong “Hai nhà” là một Lê Lựu lọc lõi, sâu cay và lạnh lùng
một cách triệt để, một Lê Lựu dám dấn thân đi đến tận cùng của cái ác, cái giả
trá và lật lọng? Mà người đời thì vốn thích ấm áp và vị tha? Có phải vì những
điều trên mà “Hai nhà” ít được nhắc đến? Chúng tôi vẫn tìn rằng đến một ngày
nào đó, nếu bạn đọc đọc kỹ cuốn tiểu thuyết “Hai nhà” của nhà văn Lê Lựu sẽ
nhìn được thêm một mặt vốn khuất lấp của chính Lê Lưu.
Tuy nhiên, nếu đọc văn học mà tin một trăm phần trăm
nhân vật là tác giả thì quả là mới đọc ở con mắt chứ chưa đọc bằng cái đầu,
nhưng trường hợp của Lê Lựu thì mới chỉ đọc bằng con mắt cũng đã dễ nhận ra,
còn nhận ra bao nhiêu phần trăm thì tùy thuộc ở bạn.
Nguồn: Văn Nghệ Công An