Mỗi khi ăn phở, họa sĩ Quách Đại Hải thường dõng dạc tuyên bố: “Khôn ăn cái dại
ăn nước. Cả đời tớ dại tớ bèn chỉ húp nước cho đúng với bản chất của mình”.
HỌA SĨ QUÁCH ĐẠI HẢI THẤM THOẮT ĐÃ MÂY BAY
PHÙNG VĂN KHAI
Họa sĩ Quách Đại Hải với cánh trẻ chúng tôi thật dễ gần.
Tôi gặp ông lần đầu cách đây cũng đã gần ba mươi năm. Tôi khi ấy đang là binh
bét lính xe tăng, bất ngờ được về dự trại viết văn quân đội còn như nằm mơ. Còn
hơn cả nằm mơ khi đích thân Đại tá Khuất Quang Thụy tới trường xe làm việc với
Ban giám hiệu để tôi có gần một tháng trời văn chương thơ phú cùng các đa đề Lê
Lựu, Nguyễn Trí Huân, Vương Trọng, Nguyễn Bảo, Lê Thành Nghị, Nguyễn Đức Mậu,
Chu Lai…
Cánh trại viên ngày ấy cũng thuộc hàng khủng: Nguyễn Hữu
Quý, Sương Nguyệt Minh, Lò Cao Nhum, Mạnh Lê, Tô Hoàn… Tôi vừa trẻ nhất trại vừa ngốc nghếch văn
chương đã lọt thỏm cơ chừng mất hút nên đôi lúc rất tự ti. Đã thế, các chị đẹp
Như Bình, Trần Thanh Hà toàn được trại trưởng Lê Lựu khen viết hay càng khiến
tôi rón rén sợ sệt, nghĩ chắc mình là kẻ toi cơm chứ văn viếc gì. May sao, từ
giây phút đầu tiên tới buổi cuối cùng, người chăm sóc và động viên tôi nhiều nhất
lại là một ông họa sĩ còm rom rí rách cái gì cũng biết. Đó chính là họa sĩ
Quách Đại Hải, người có hàng chục năm trình bày mỹ thuật những số Văn nghệ quân
đội lừng danh.
Hôm tập trung lên xe tại sân nhà số 4, xe chuẩn bị
chuyển bánh mọi người cứ dớn dác tìm kiếm ai đó. Tiếng một nữ nhà văn (sau này
tôi mới biết là Nguyễn Thị Như Trang) bực dọc: “Đúng giờ thì xuất phát thôi, chắc
lại say khớt cò bợ ở đâu rồi? Lần nào cũng bắt mọi người phải đợi, thật chẳng
ra thể thống gì cả”. Tôi không hiểu chuyện gì chỉ biết ngồi im. Nhà văn Lê Lựu
mướt mồ hôi gãi mớ tóc xoăn lẩm bẩm: “Để tôi, để tôi…”. Cứ thế ông đi như chạy
về phía góc đường nơi rùm ròa quán sá kéo sềnh sệch một vị gầy nhách khuôn mặt
tý toáy như Tôn Ngộ Không tay vẫn đang cầm chiếc chén hoa hồng dốc dốc thứ gì
đó vào miệng, chân đi đôi dép cọc cạch rất tức cười.
Tôi thấy nữ nhà văn bĩu môi quay ngoắt lên trên mặc kệ
Lê Lựu gần như phải bế kẻ đồng hành để xe chuyển bánh. Xe còn chưa kịp đóng cửa,
Lê Lựu vừa lơi mắt, đã tót cái vị kia rời nhanh khỏi xe miệng nói với vào bên
trong: “Anh chị đợi tôi tý. Tôi trả bà chủ quán cái chén”. Rồi nhanh như sóc, mọi
người chưa kịp hết bực mình đã thấy ông còm rom ngồi tót nơi bậc cửa lên xuống
chiếc xe nhà binh phì phèo thuốc lá véo von hát sẩm: “Bèo dạt… mây trôi… chốn
xa xôi… em ơi… em hãy đợi… anh về…”.
Trên xe, mọi người dường như không ai dám dây với ông
gầy nhách đang véo von ca hát. Ngay cả bác lái xe mang quân hàm đại úy cũng
không dám nhắc nhở gì. Cũng may ngày đó đường chật, người đông nên xe chạy rất
chậm, mọi thứ vì thế an toàn cả.
Khi xe đến Hải Dương bị tắc ở đầu cầu Phú Lương. Thoắt
cái đã không thấy ông gầy đâu. Ai cũng khát lử lả không buồn trò chuyện. Bỗng
tiếng hát lại cất lên: “Ta là con của bố ta mẹ ta… nhớ nhà thì ta cứ ta về… ta
không cần ba lô không cần ô tô không cần xích lô… ta đi theo lối nhỏ là lối an
toàn…”. Lúc này, chừng như không chịu nổi, nữ nhà văn nổi đóa: “Có thôi ngay đi
không. Mọi người nhức đầu muốn chết đây…”. Thì kỳ lạ chưa, ông gầy đã nhanh tay
khuân ở đâu về một túi to bánh mỳ và nước mát. Ngày đó, lúc đó còn hơn buồn ngủ
gặp chiếu manh. Cứ thế thoăn thoắt, ông mau chóng phát cho mỗi người một chiếc
bánh mỳ và một chai nước lạnh khiến mặt ai cũng tươi tỉnh hẳn. Đến chỗ nữ nhà
văn, ông gầy hai tay cung kính dâng vật phẩm miệng tươi cười duyên dáng: “Tại hạ
cung thỉnh nương nương dùng ngự thiện à!” khiến nữ nhà văn cũng phải phì cười.
Không khí trên xe từ bấy giờ thay đổi hẳn.
Cùng lúc đường hết tắc, gió trên cầu Phú Lương lồng lộng.
Được chút đồ lót dạ lại thêm nước mát, ai nấy đều có vẻ phởn phơ. Bấy giờ Lê Lựu
từ phía cuối xe mới nói vóng lên: “Xin kính mời quản ca Quách tiên sinh cầm
càng hát quốc ca”. Lập tức, ông gầy trịnh trọng tiến ra giữa xe, nhấc bừa chiếc
mũ trên chiếc đầu hói của Nguyễn Đức Mậu khẽ ngả ra phía trước làm động tác cúi
chào như diễn xiếc rồi đột ngột hất mặt lên trần xe cất giọng nghiêm trang: “Quốc
ca! Bắt đầu!... Đoàn quân Việt Nam đi… thôi thì thế thế…”. Vừa hát cả xe cười sằng
sặc cái sự táo gan dám chế tác cả quốc ca mà kẻ đầu trò là nhị vị Quách Đại Hải
và Lê Lựu. Điều đó sau này tôi mới biết.
Trong trại viết đó, tôi mới thấy hết sự ân cần, chăm
chút của họa sĩ Quách Đại Hải
với anh em, nhất là với binh bét tôi. Trong bữa ăn, bao giờ ông cũng súy ngồi
cùng bàn với tôi, chăm bẵm như người cha chăm sóc đứa con. Ông ăn ít lắm, chỉ uống
là chính. Mỗi khi ăn phở, ông thường dõng dạc tuyên bố:
“Khôn ăn cái dại ăn nước. Cả đời tớ dại tớ bèn chỉ húp nước cho đúng với bản chất
của mình”.
Các trại viên sau vài ngày dường như đã quen với cung
cách hài hước ngộ nghĩnh của ông. Các bợm nhậu Lò Cao Nhum, Phùng Kim Trọng,
Phan Tùng Lưu… chừng vẻ rất khoái ông anh đã lấp ló ở đâu chai rượu nút lá chuối.
Ông anh típ mắt, nhanh như sóc xoay lưng về phía nữ nhà văn đưa ngay chai kề miệng
tợp liên hồi. Còn chút rượu đáy chai, dường như không để phí lộc giời, trước cặp
mắt thán phục của các bợm nhậu, ông lập tức dốc nốt xuống bát phở đã nguội ngắt
từ lâu xì xụp húp.
Trong trại viết ấy, tôi được ông chăm sóc tận tình,
văn viết chả đến đâu nhưng trọng lượng tăng thêm gần bốn ký. Toàn bộ ảnh chụp anh
em trại viết đều do ông tặng. Năm 1996, mỗi bức ảnh trị giá bằng nửa tháng phụ
cấp binh bét của tôi.
Họa sĩ Quách Đại Hải không chỉ đảm đương toàn bộ phần
mỹ thuật của Văn nghệ quân đội một thời gian dài mà ông tham gia viết văn, viết
báo, dựng kịch bản phim, thiết kế bối cảnh trường quay cũng rất thần tình. Sau
trại viết, tôi về Truyền hình quân đội luôn rất biết ơn ông. Ngày đó, Truyền
hình quân đội hàng tháng có chuyên mục giới thiệu Văn nghệ quân đội trên sóng.
Trưởng ban biên tập Chi Phan giao cho tôi thực hiện mục này.
Tôi từ 84 Lý Thường Kiệt sang nhà số 4 Lý Nam Đế để lấy
bản bông thường được họa sĩ Quách Đại Hải cung cấp và tư vấn nội dung. Dưới con
mắt họa sĩ giàu hình ảnh, ông đã nói vanh vách nội dung các truyện ngắn, bài
thơ, lý luận phê bình khiến tôi kinh ngạc. Ông còn nói Nguyễn Minh Châu là thế
này, Nguyễn Khải thế kia, Xuân Sách thâm trầm, Hồ Phương trịnh trọng… cứ như từ
điển sống. Rồi cũng chính ông tham vấn và giúp đỡ tận tình tôi thực hiện các
phim tài liệu chân dung về các họa sĩ Văn Đa, Mai Văn Hiến, Quang Thọ, Huy
Oánh… Tôi trưởng thành được về nghề văn bút truyền hình cũng là nhờ nhiều bậc
thầy trong đó có họa sĩ Quách Đại Hải.
Họa sĩ Quách Đại Hải là người từng khuyên tôi sớm trở
về ngôi nhà số 4. Ông bảo tôi thuộc nòi kiếp văn chương thì phải về đó để kéo
cày. Khi tôi về đó cũng là thời khắc ông cùng các bậc đa đề Lê Lựu, Chu Lai,
Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu… nghỉ hưu. Rồi công việc cuốn chúng tôi đi. Cũng
lâu lâu, không thấy cái dáng còm rom rí rách của ông thấp thoáng dưới gốc cây đại
nữa.
Trong giới mỹ thuật, họa sĩ Quách Đại Hải là một cái
tên dường như còn khiêm tốn, song trong cuộc sống đời thường, ông luôn biết tạo
niềm vui cho mọi người. Điều này lớp trẻ chúng tôi rất cần phải học ông.
Xin được tạm kết bài viết bằng một đoạn văn của chính
ông với tiêu đề Những năm tháng ấy:
“Ai quên chứ tôi thì chẳng quên mùa hè 1990, cơ quan
cho tất cả đại gia đình gồm dâu, rể, con, cháu đi nghỉ mát một tuần ở Sầm Sơn.
Lão “Giang Minh Sài” thật tình sốt sắng “nhặt được” ở đâu một con xe “thương
binh nặng” chở tất tật năm mươi người, lúc vào xứ Thanh thì không có chuyện gì.
Các chị, các cháu được ngồi ghế còn mấy ông văn thơ cùng họa sĩ rúc xuống cuối
xe hò hát, kể chuyện tiếu lâm làm cả xe cười vui quên đi cái nóng trong mùi dầu
ma dút và những cú xóc bạt mông. Rồi đến biển mới thật sướng, các cháu lần đầu
tiên thả sức vẫy vùng cùng sóng xanh, bận nhất là ông Nghị, bà Phi, con mới ba
tuổi phải mang bếp dầu từ Hà Nội vào để nấu cháo. Ông Huân, bà Trâm khá hơn
nhưng cũng hú hồn hú vía chạy suốt bờ cát tìm con.
Xúc động nhất là bí thư mới của Thanh Hóa Lê Huy Ngọ
nghe tin có đoàn nhà văn Văn nghệ quân đội vào, lập tức đáp xe từ thị xã xuống
thăm và không quên kèm theo mấy “quả bom Tha Đa”. Lúc đi thì thuận thế, lúc về
thì ôi thôi, qua “mấy ngày ra biển”, anh “thương binh nặng” bắt đầu giở trò,
hơn một trăm cây số anh ta lăn ra chết lâm sàng tới ba lần. Có lần tới hơn hai
giờ dưới cái nắng hè xứ Thanh hầm hập, những gia đình có cháu bé đành bỏ xe chạy
lấy người, mạnh ai bắt xe ngoài. Anh trụ lại được thì tìm bãi cỏ bụi cây cố gắng
nằm, ngồi chờ mặt trời chiếu đến đâu thì trốn đến đấy… rồi đêm khuya cũng ì ạch
về tới Hà Nội. Đúng là một chuyến xe bão táp, một chuyến đi nhớ đời”.
Họa sĩ Quách Đại Hải là thế đấy. Mà thấm thoắt đã mây bay...