Thực
ra thơ là thể loại văn học khó nhất trong thế giới văn chương. Nó khó vì nó có
ngôn ngữ riêng: đó là ngôn ngữ thơ. Chắt lọc. Mới lạ. Bất ngờ. Độc đáo đến độ
làm người đọc kinh ngạc, bàng hoàng, đôi khi hoảng sợ.
GIÀY DÉP, THƠ VÀ NHẠC GIAO HƯỞNG
ĐÀO HIẾU
Tôi có một cô bạn, tốt nghiệp nhạc viện Hà Nội khoa
Cello trước 75. Khi đất nước thống nhất cô vào Sài Gòn mua nhà định cư luôn ở
miền Nam. Thình thoảng cô có đi nước ngoài biểu diễn theo lời mời của những tổ
chức gì đó tôi không nhớ tên. Còn ở Sài Gòn thì cô sinh sống bằng nghề độc tấu
Cello mỗi đêm tại các quán cà phê sang trọng. Cuộc sống của cô tương đối khá giả
và “quý tộc”.
Một lần cô mời tôi đến nhà chơi, vừa định bước lên mấy
bậc thềm thì thấy tấm bảng bằng giấy bìa cứng có dòng chữ” “XIN VUI LÒNG ĐỂ
GIÀY DÉP VÀ… THƠ BÊN NGOÀI”.
Tôi viết văn xuôi là chính, chơi đàn và làm thơ chỉ là
phụ, tuy vậy tấm bảng cũng làm tôi hơi chột dạ.
Tôi nói:
-Em để tấm bảng như vậy không sợ buồn lòng bạn bè sao?
-Em không có người bạn nào là nhà thơ cả.
-Anh thì có nhưng rất ít. Vì nhà thơ thực ra rất hiếm.
Cô bạn rót trà cho tôi và cười.
-Em lại thấy thời nay đi đâu cũng gặp nhà thơ. Có người
nói đùa rằng Việt Nam là một “cường quốc thơ”.
-Em nghĩ sao nếu anh nói rằng thơ là một thể loại văn
học khó nhất. Hơn cả truyện ngắn và tiểu thuyết. Nếu so sánh với âm nhạc thì
“thơ” là “nhạc giao hưởng”, còn những thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn,
bút ký… cũng giống như nhạc nhẹ, nhạc pop, rock hay các ca khúc có lời. Cụ thể
hơn: Thơ chính là cây đàn cello của em đó. Vừa chơi nhạc cổ điển, giao hường vừa
là nhạc cụ ít được hâm mộ và khó chơi nhất.
Cô bạn đốt thuốc lá và hỏi tôi có hút không. Tôi lắc đầu.
-Anh so sánh cây đàn cello với thơ làm em ngạc nhiên
quá!
-Sao lại ngạc nhiên?
-Vì em học đàn cello ở nhạc viện 11 năm, giáo trình đã
khó mà tác phẩm cũng khó, trong khi thơ thì tràn lan trên mặt báo. Nhà nhà làm
thơ, người người làm thơ, sao mà so sánh như vậy được chứ?
-Được đấy. Trước 75 ở miền Nam có nhà thơ Nguyên Sa.
Ông ấy có một câu rất nổi tiếng: “Không hề có thơ dở. Hoặc đó là thơ, hoặc đó
là những câu có vần, chứ không phải thơ”.
-Em có đọc một số bài thơ trên báo. Chán chết!
-Có hai nguyên nhân: Một là em “dị ứng” với thơ (cũng
giống như có người dị ứng với đàn cello). Hai là em đã đọc một thứ gì đó có
hình thức như thơ. Chứ thực ra thơ là thể loại văn học
khó nhất trong thế giới văn chương. Nó khó vì nó có ngôn ngữ riêng: đó là ngôn
ngữ thơ. Chắt lọc. Mới lạ. Bất ngờ. Độc đáo đến độ làm người đọc kinh ngạc,
bàng hoàng, đôi khi hoảng sợ. Về bút pháp cũng thế. Nó không theo thứ ngữ
pháp thông thường, cấu trúc câu thông thường. Nó sáng tạo ra những cấu trúc mới,
rất riêng. Cấu trúc ấy rất gần với Nghệ Thuật Sắp Đặt trong không gian ba chiều
(Installation Art: An artistic genre of three-dimensional works) trong kiến
trúc, hội họa và điêu khắc. Nhưng nó lại là một thứ nghệ thuật sắp đặt trong
không gian 2 chiều của ngôn ngữ.
Cô bạn cười khúc khích.
-Anh triết lý hơi nhiều về Thơ đấy. Vậy hãy thử cho em
nghe một bài nào mà anh cho là “thơ thứ thiệt” xem sao.
Tôi lấy giọng bằng một ngụm trà. Và đọc một đoạn thơ
chợt hiện của nữ sỹ Phạm Hiền Mây:
Xoá giùm em những chiều mây
những buồn vời vợi phía tây nắng tàn
phía hương khói thắp mù ngàn
lệ sương giọt xuống muôn vàn nhớ thương
giữ giùm em vết tình vương
lên môi non mật ngôn hương ngút trời
lên môi thơm có hoa mời
cho khe suối ướt ngọt đời phù du
….
níu giùm em kẻo tuổi trôi
vào biền biệt tím pha phôi giang hà
tím mưa giăng tháp tay ngà
tím màu tóc ngọn la đà sầu vây…
(trích bài “GIÙM EM”)
Đọc xong tôi hỏi nàng cellist:
-Em sợ chưa?
-Chưa. Đọc bài nữa đi.
Tôi lục tìm trong bộ nhớ một tác phẩm của Tô Thùy Yên.
Bài “Ta Về”
TRÍCH:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
…..
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Người đẹp của cây đàn Cello vẫn trầm mặc.
-Thế còn anh?
Tôi đi lại phía tủ lạnh, mở một lon bia, hơi điệu đàng
một chút, rồi đến ngồi đối diện chủ nhà:
-Anh đâu phải thi sỹ.
-Vẽ vời! Đọc đi!
Tôi chọn một bài ngắn nhất để khỏi làm phiền người đẹp:
Mưa bay đầy trời, một mình quán cóc
Không biết ngồi với ai, ta ngồi với thời gian
Thời gian lặng câm từ muôn kiếp trước
Thời gian cũng buồn như cõi đời này
Nên đã cùng ta cạn chén rượu cay.
(Uống Rượu Với Thời Gian)
Và tôi lại hỏi:
-Sợ chưa?
-Chưa. Nhưng những bài anh vừa đọc cũng khá độc đáo.
-Có bằng những bản độc tấu đàn cello của em không?
-Ví dụ như những bản gì?
-“Tổ khúc cho Cello” của Johann Sebastian Bach. Hay là
“Concero số 1” của Joseph Haydn. Anh đã từng ngồi nghe em đàn tại quán cà phê
đường Ngô Thời Nhiệm, quán có chừng 40 khách nhưng chỉ độ 10 người lắng nghe,
còn những người khác thì họ nói chuyện riêng. Chỉ khi em chơi bài Bèo Dạt Mây
Trôi thì họ nghe có vẻ chăm chú. Đó, em thấy không. Đâu phải ai cũng biết thưởng
thức nhạc thính phòng, nhất là trình tấu bằng đàn cello. Có phải âm nhạc của em
rất khó và rất kén người nghe như thơ không nào?
-Có thể là như vậy.
-Không “có thể” gì cả. Mà đúng là như vậy. Thơ thứ thiệt
cũng giống như nhạc thính phòng vậy. Khó chơi và khó thưởng thức. Nó chính là
cây đàn cello của em đó!
Cô bạn mỉm cười. Vẫn giữ vẻ xa vắng. Cô chỉ nói:
-Thôi, cho qua chuyện này!
-Chưa “cho qua” được đâu.
-Bộ anh muốn ăn vạ hả?
-Không ăn vạ. Nhưng em ơi! Làm ơn cất giùm cái tấm bảng “Xin vui lòng để giày dép và thơ bên ngoài” giùm anh.