Thời gian trước 1975, dân mình thích đọc nhưng
đa số thuê sách đọc rẻ hơn nhiều, thấy hay quá thì đi mua, muốn lưu giữ thì
chịu mất cọc lấy luôn cuốn sách. Đó là tình trạng chung của dân đọc sách.
THIÊN ĐƯỜNG SÁCH
PHẠM CÔNG LUẬN
Sách chia người đời ra hai nhóm: người đọc
sách và người không đọc sách. Ở đây là chuyện của người đọc sách.
Hồi tôi còn nhỏ, không rõ nơi khác ra sao chứ
riêng trong xóm tôi không mấy nhà có sách trong nhà. Lê la từ nhà này sang nhà
khác, tôi chỉ mong tìm ra cuốn sách nào đó để mượn và ít khi có. Vài ông trong
xóm có đọc báo nhưng sang nhà tôi để mượn đọc rồi trả. Năm 1975, những người
phụ trách “bài trừ văn hóa độc hại” chừa xóm tôi ra, chỉ tìm sách “độc hại”
trong các xóm có nhiều nhà khá giả. Họ tin xóm lao động của tôi không mấy nhà
có sách lưu trữ. Nhờ vậy, nhà tôi giữ lại được hơn trăm cuốn sách.
Tôi có những kỷ niệm về sách hồi nhỏ, đã kể
trong mấy bài viết về sách. Có chuyện chưa kể là có lần tôi và ông anh cùng đọc
chung cuốn “Mơ thành người Quang Trung” của Duyên Anh thì bất ngờ bị ba dùng
roi quất vào mông cả hai mấy roi đau điếng vì tội “ham đọc sách, làm biếng
học”. Hai anh em tôi vùng dậy, không hiểu vì sao bị quy tội như vậy (dù hai anh
em cũng… làm biếng học, nhưng đứa học trò nào chẳng thế!). Đó là thời gian
khoảng sau năm 1969, chuyện làm ăn khó khăn và ba tôi rơi vào trạng thái trầm
cảm. Ông cũng thích đọc sách, nhưng tâm trạng bất an đã trở thành cơn nóng
giận. Đối với ông chuyện cơm gạo mới là quan trọng dưới mái nhà. Sau này tôi
nghĩ như vậy, chứ lúc đó chỉ có tâm trạng uất ức của thằng nhỏ chín tuổi.
Đó là kỷ niệm buồn duy nhất liên quan đến sách.
Gần như sách chỉ mang đến niềm vui, giúp tôi vượt qua cuộc sống buồn tẻ, lại
tạo nên những gì tôi đang có.
Có vài nhà văn mà tôi thích đọc về cuộc đời
nhiều hơn văn chương của họ. Đó là ba nhà văn Hemingway, Nhất Linh và Nguyễn
Hiến Lê. Hai ông trước, cuộc đời phiêu bạt của họ rất đáng ngưỡng mộ. Hemingway
từng chiến đấu như người lính và phóng viên chiến trường chống độc tài ở Tây
Ban Nha, lại cuốn hút phụ nữ vì điển trai, viết sách đa dạng đề tài, nhiều cuốn
chỉ đọc tựa sách thôi đã thấy mê như Những ngọn đồi xanh châu Phi, Hội hè miên
man, Bên con sông và dưới vòm lá cây… Đàn ông nào hồi còn trẻ cũng muốn được
như Hemingway, đẹp trai, viết hay, lang bạt khắp nơi, có những mối tình sôi
nổi. Nhất Linh cũng có cuộc đời phiêu bạt, ông không chỉ viết văn giỏi mà còn
làm báo giỏi, vẽ đẹp, tên tuổi lừng lẫy ở thời kỳ rất sôi nổi về văn chương của
miền Bắc, sống có lý tưởng, đã chọn cái chết rất bất ngờ và quyết liệt.
Riêng đối với nhà văn Nguyễn Hiến Lê, tôi kính
trọng sự chuyên tâm làm việc của ông, khối lượng kiến thức ông truyền bá qua
các cuốn sách dịch, từ sách nghiên cứu cho đến tiểu thuyết, nhưng tôi thích
nhất bộ hồi ký của ông và vài tập tùy bút. Qua tùy bút Nguyễn Hiến Lê, luôn có
vẻ đẹp của sách vở và thú vui đọc sách. Điều đó âm thầm cổ vũ tôi, khi còn là
đứa bé có phần hướng nội, thích giao du trong vòng hẹp và chọn đọc sách là thú
vui lớn nhất.
Tôi bắt đầu thích đọc Nguyễn Hiến Lê từ cuốn
“Mười câu chuyện văn chương”, đọc năm 14 tuổi năm 1975 khi chiến tranh đang
diễn ra dồn dập. Tôi hứng thú đọc đoạn văn Nguyễn Hiến Lê kể chuyện sách nửa
thế kỷ trước, khoảng những năm 1930, ở Hà Nội “ngoài mấy cuốn Truyện Kiều, Nhị
Độ Mai, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh. Phạm Công Cúc Hoa … chỉ còn mỗi một loại là
truyện Tàu. Thuê được một cuốn truyện Tàu (ở hiệu Cát Thành, đầu phố Hàng Gai –
Hà Nội) thì phải đọc cho xong (100 trang khổ lớn chữ Romain 10) trong hai ba
ngày và cả nhà, đủ ba thế hệ, xúm lại nghe một người đọc dưới ngọn đèn ba dây”.
Chú bé Nguyễn Hiến Lê là người đọc cho mọi
người nghe và thích thú với vai trò đó, vì được cả nhà cưng, được ngồi ở giữa
quấn mền giữa mùa đông, có bình nước bên cạnh để nhấp giọng và một dĩa lạc
rang, hoặc vài món ăn khác. Chú thích thú quan sát vẻ mặt mọi người, khi sắp
hết truyện thì ai nấy nửa hân hoan nửa tiếc rẻ. Những chuyện kết thúc có hậu
khiến mọi người rất thích. “Đọc tới chữ Chung, mọi người hân hoan đi ngủ ngon
lành để đón những giấc mộng đẹp toàn những cảnh vinh quy bái tổ, giai nhân tài
tử dạo gót huê viên”.
Sau này lên trung học, tôi có nhiều bạn bè
thích đọc sách hơn hồi học mấy lớp dưới. Hai năm sau 1975, hầu như không còn
mấy đứa có sách trong nhà. Để cho bạn vui, tôi mang sách từ nhà ra cho bạn mượn
và số sách đó mất dần, không mấy người nghĩ đến chuyện trả lại.
Hồi thập niên 1990, tôi thường đến thăm nhà
văn Sơn Nam trên đường Lê Văn Duyệt gần cầu Bông hay ghé nhà trọ nơi ông ở tạm
tại Gò Vấp. Ở đâu tôi cũng thấy quanh ông luôn có sách, đa số là sách in thời
Pháp thuộc, một số in trước 1975. Tôi đọc lời tâm sự của ông về sách: “Nhà tôi
sách khá nhiều, thêm sách về dân tộc học, mỹ thuật, lịch sử, tôn giáo, vân vân.
Chồng chất đầy nhà, nhịn ăn mà mua. Để thấy người xưa và người đương thời đã
làm những gì, làm tới đâu. Lắm khi đọc không thấy ích lợi gì hết, đâu phải
quyển nào cũng gợi âm vang ngay trong truyện mình đang viết hoặc sắp sửa viết.
Nhưng cần thiết, để củng cố bản lĩnh, tỉnh táo hơn. Sự ích lợi rất gián tiếp.
Đó là thứ phân hữu cơ cần thiết” (trong cuốn Dạo chơi). Ông Sơn Nam không sưu
tầm sách quý như ông Vương Hồng Sển, sách với ông để đọc, để nghiên cứu và tôi
thích quan điểm này của ông.
Có lần, tôi được “xem” một cuộc triển lãm sách
báo, một cuộc triển lãm thật hấp dẫn ở một tiệm sách gần chợ Bến Thành. Ở đó,
trong hơn một giờ, chủ nhân dẫn người xem đi vòng quanh và giới thiệu từng góc
triển lãm. Bắt đầu từ dưới nhà bày sách và tự điển, có đủ các thứ sách quý
tưởng không còn thể tìm đâu thấy. Những bộ sách rất xưa, in từ năm 1805 cũng
còn đủ. Có đủ bộ của thi sĩ Tản Đà với tất cả sự nghiệp trứ tác. Có một tủ bày
riêng sách của các ông Nguyễn Văn Ngọc, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Hai bên tủ
kính đẹp nhứt, một bên dành cho những sách của Thống chế Pétain, một bên dành
cho sách và bút tích của bác học Trương Vĩnh Ký.
Ở giữa, bày những sách in đẹp, bằng giấy láng,
giấy bouffant, giấy dó, loại sách quý nầy được bày riêng ra một bàn. Bên phía
tủ trong, người ta thấy có những cuốn sách về Nguyễn Du, những cuốn Kiều xưa và
nay, có những cuốn in ở bên Paris từ hồi 1906 đến nay còn giữ được. Có cả những
bản Kiều chữ nôm in bằng tay, rất cũ. Trên lầu là chỗ trưng bày báo chí và
tranh ảnh của các người có công với quốc văn, quốc ngữ. Trên tường treo đủ
hình, từ những lớp xưa như cụ Chu Mạnh Trinh, cụ Yên Đỗ, cụ Dương Khuê, cụ Phan
Thanh Giản, cụ Tôn Thọ Tường, nhà bác học Trương Vĩnh Ký, rồi đến ảnh các người
lớp thứ nhì như các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Châu, Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Văn Tố, Lê Dư,… sau mới đến các lớp văn sĩ như Thiếu Sơn, Nguyễn Công
Hoan, nhà tiểu thuyết Khái Hưng, nhà phê bình Trương Tửu, họa sĩ Nguyễn Đỗ
Cung, cùng đủ mặt các văn sĩ, các văn đoàn.
Cuộc triển lãm có sáng kiến đáng khen là có
treo một bức bản địa đồ văn học Việt Nam, cho người xem thấy được cụ Nguyễn Du,
cụ Nguyễn Công Trứ là người Hà Tĩnh, Ngọc Hân Công Chúa quê ở Thăng Long, cụ
Trương Vĩnh Ký, cụ Đồ Chiểu,… quê quán ở đâu, nhìn qua biết ngay. Về sách báo
và tạp chí bày hai bên tường, có đủ các loại báo xưa nay, từ tờ báo đầu tiên là
Gia Định Báo, đến những tờ tạp chí văn hóa đầu tiên như Nam Phong, Đại Việt tạp
chí, Đông Dương Tạp Chí,… cho đến báo ngày nay. Đặc biệt giữa phòng, có một bàn
lớn bày bút tích của vài nữ sĩ, văn sĩ.
Đây là lần xem triển lãm… trong mơ của tôi.
Cuộc triển lãm này có thật nhưng đã tổ chức từ năm 1942, gần 80 năm trước và do
nhật báo Sài Gòn thời ấy tường thuật lại, rất chi tiết khiến người đọc thích
thú, tiếc là mình không phải khách đến xem thời đó. Ông Nguyễn Khánh Đàm, em
trai nhà văn Nguyễn Tuân, chủ tiệm sách đã tổ chức cuộc triển lãm sách này,
xứng đáng là chuẩn mực cho các cuộc triển lãm sách báo sau này. Nhiều quan chức
Pháp cùng các vị Trương Vĩnh Tống, Hồ Biểu Chánh, các thân sĩ Nam Kỳ cùng các
nhà viết báo Nam Bắc đã đến dự khai mạc.
Điều đáng ghi nhận là vị thế của sách báo đã
được trân trọng từ rất lâu, thời mà báo chí tiếng Việt có lịch sử chưa tới 80
năm từ Gia Định báo và chữ quốc ngữ còn đang phát triển.
Khi còn sống, ba tôi nói bây giờ sách rẻ so
với giá sinh hoạt nên người ta không coi trọng. Hồi ông còn trẻ, đồng tiền kiếm
khó khăn, sách là món đồ mà ai dư giả ít nhiều mới dám mua. Người bình dân
thích đọc thì mua mấy cuốn truyện Tàu tuồng cải lương cổ mỏng chỉ 16 hay hơn 20
trang để đọc đã là phong lưu. Nhà nào có tủ sách trên trăm cuốn là ngon lành.
Ai mê sách thì ráng để dành mua truyện Tàu nguyên bộ, đọc đi đọc lại, quý như
vàng, để trong tủ kính. Thời gian trước 1975, dân mình thích đọc nhưng đa số
thuê sách đọc rẻ hơn nhiều, thấy hay quá thì đi mua, muốn lưu giữ thì chịu mất
cọc lấy luôn cuốn sách. Đó là tình trạng chung của dân đọc sách. Còn sách học
bằng tiếng Pháp thì mắc, nhiều người vì không có tiền mua sách giáo khoa từ
Pháp gửi qua mà không dám thi vào cấp học cao hơn.
Mùa dịch bệnh phải ở trong nhà thường xuyên,
tôi thấy mình và cả nhà đọc được nhiều hơn. Trong trạng thái nhàn tản và quấn
quýt bên những người thân yêu, chúng tôi cùng nấu ăn, dọn dẹp nhà và lục lọi tủ
sách do bận bịu không viếng thăm thường xuyên, thấy có nhiều cuốn sách mua ở
các chuyến đi chưa kịp đọc. Trong cái tĩnh mịch của cái xóm nhỏ đang mùa cách
ly, tôi nhắc đến câu viết của nhà văn Argentina, Jorge Luis Borges cho con trai
khi chúng tôi đang ở phòng thư viện: “Tôi luôn luôn tưởng tượng rằng Thiên
đường sẽ giống như một thư viện”. Con trai tôi, một đứa mọt sách, mỉm cười:
“Ngược lại, chúng ta có thể tưởng tượng rằng thư viện giống như một Thiên
đường, phải không?!”.