Con đường đến với ‘Bóng chữ’ và những tìm tòi đổi mới thơ Việt của nhà thơ Lê Đạt (1929-2008) được người cùng thời Lương Duy Cán hồi tưởng bằng thương nhớ.
Nhớ thương một thời
bóng chữ
LƯƠNG DUY CÁN
Một sáng đầu thu 1956, tôi đến trường, chuẩn bị vào lớp
thì thấy ở đầu ngã tư, có rất đông người túm tụm quanh một người bán báo dạọ.
Không biết báo gì mà khiến người ta phải chen như thế, điều chưa từng có! Tôi
cũng len vào, mua thử một tờ xem sao. Đó là tờ báo Nhân Văn số 1.
Trước hết, đọc ngay trang đầu: một bài thơ rất dài, lại
còn có “xem tiếp trang sau”. Quả là chưa từng thấy. Thơ lại viết theo kiểu câu
dài câu ngắn không theo luật lệ nào. Xong bài thơ lại còn một khúc “tái bút”
khá dài, chưa ai từng làm. Nhan đề của bài thơ đập ngay vào mắt người đọc:
“Nhân câu chuyện mấy người tự tử”. Quả là một cái nhan đề kinh khủng. Tác giả
bài thơ là một nhà thơ quen thuộc: Lê Đạt.
Tôi nhớ rằng, chiều hôm đó, tôi về gặp nhà thơ Nguyễn
Bính ở tòa soạn báo
Trăm Hoa. Tôi
kể lại sự việc, cùng với nỗi ngạc nhiên của mình, anh Nguyễn Bính buông ngay một câu:
“Thì là tiếng chuông cứu khổ cứu nạn mà”.
Thật ra thì trước khi đọc bài thơ ấy, tôi đã từng đọc một bài thơ tuyệt hay của
Lê Đạt, trên một tờ báo Văn Nghệ, bài thơ “Cha tôi”.
Viết về cha mình, Lê Đạt muốn viết về một thời đã qua,
của mình, cũng là của cuộc đời, của mọi người nói chung. Một thời để kiêu hãnh, mà cũng là để đau
thương: “Đất quê cha tôi/ đất quê Đề Thám/ Rừng rậm sông sâu/ Con gái cũng theo
đòi nghề võ/ Ngày nhỏ/ cha tôi dẫn đầu/ lũ trẻ đi chăn trâu/ Phất ngọn cờ lau/
Vào rừng Na Lương đánh trận/ Mơ làm Đề Thám”.
Đẹp biết bao, những giấc mơ thời trẻ. Ai mà chẳng từng
mơ! Nhưng giữa những giấc mơ và cuộc đời là cả một trời xa cách. Nhất là vào những
năm tháng ấy. Cái gì đã khiến cho những giấc mơ không thể cất cánh bay lên?
Không gì khác. Chính là gánh nặng áo cơm, nhất là chuyện áo cơm cho vợ cho con.
Có ai bắt mình đầu hàng, chính là những thứ ấy khiên cho mình phải đầu hàng. Đầu
hàng mà đau lắm, nhục lắm:
“Cha
tôi không dạy tôi làm thơ nữa/ Người
còn bận đếm tiền/ ghi
sổ/ Thỉnh thoảng nhớ
những ngày oanh liệt cũ/ Một
mình uống rượu say/ Ngâm
mấy câu Kiều/ ôm
mặt khóc/ Tỉnh
dậy/ lại loay hoay/ ghi sổ/ đếm tiền/ Hai vai nhô lên/ Đầu lún xuống/ Như không mang nổi cuộc đời”.
Những câu thật xót xa cho kiếp người, nhất là cho kiếp
người trí thức thời ấy. Hình như ai cũng nhận ra mình. Rồi bài thơ kết thúc, bằng
những câu như trút ra từ tim: “Những
mơ ước thời xưa/ như
con chim gẫy cánh/ Rũ
đầu chết ngạt trong bùn/ Năm
tháng mài mòn/ bao
nhiêu khát vọng/ Cha
đã dạy con một bài học lớn/ Đau
thương/ kiên quyết làm người”
Kiên quyết làm người! Nhưng làm người là làm gì bây giờ?
Cái khoảng trống nguy hiểm là chỗ đó. Có
thể nói bài thơ “Cha tôi”
đã có một tiếng vang rất lớn vào lòng người đọc, nhất là giới trí thức và văn
nghệ sĩ. Lúc này cũng là khoảng thời gian mà tập thơ của một nhà thơ nổi tiếng
vừa được xuất bản. Giáo sư Trương Tửu, trong một giờ lên lớp, đã tuyên bố: “Cả tập thơ X chẳng là gì cả nếu đem nó đặt cạnh bài
thơ “Cha tôi” của Lê Đạt”.
Sau này, chắc hẳn từ câu nói này, cùng với những điều
mà ông viết trong mấy tập Giai Phẩm mùa thu rồi mùa đông, giáo sư Trương Tửu đầy sức lôi cuốn, đã phải
làm cuộc biệt ly không ngày trở lại với cái ghế trên giảng đường của mình, để
trở thành một nhà châm cứu nổi tiếng trong ngôi nhà của ông trên phố Hàng Gà!
Thật ra, bài thơ “Cha tôi” chỉ là sự khởi đầu, bùng nổ chính là bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử”. Mọi tai vạ đến với anh cũng từ bài này.
Thật ra thì bài thơ bắt đầu cứ nhẹ như không: “Báo Nhân Dân số 822/ Có đăng tin mấy người tự tử/ Vì câu chuyện tình duyên dang dở/ Trưa mùa hè nóng nung như lửa/ Tôi ngồi làm thơ/ Vừa giận vừa thương những người xấu số/ Chân chưa đi hết đường đời/ Đã vội nằm dưới mộ”.
Tuy nhiên, từ cái việc nhân câu chuyện ấy mà Lê Đạt muốn
đi đến tận cùng: “Chết
là hết/ Hết đau hết khổ/ Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên
đầu/ Hết những bàn tay
e ấp tìm nhau”.
Cố gắng tìm tận cùng nguyên nhân, Lê Đạt đã viết những
câu thơ thực sự gai góc: “Anh công an nơi ngã tư đường phố/ Chỉ đường cho/ xe chạy/ xe dừng/ Rất cần cho luật giao thông/ Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim
người/ Bắt tình cảm ngược
xuôi/ Theo luật lệ đi đường
nhà nước/ Có
thể gây nhiều đau xót/ ngoài
đời”
Trong khoảng thời gian này, tôi chưa có quen biết gì
anh Lê Đạt, tuy tôi đã bị coi là “thuộc loại bất hảo” vì có bài trong “Đất mới” tập 2, chưa kip ra thì đã bị thu ngay bản
thảo.
Chính Nguyễn Bùi Vợi là người đầu tiên đưa tôi đến gặp
Lê Đạt. Lúc đó Nguyễn Bùi
Vợi đã có tập thơ được in ở một nhà xuất bản có cái tên độc đáo: Nhà xuất bản
Thép. Tập thơ của Nguyễn Bùi Vợi
còn được điểm tên trên một tờ báo Nga là tờ Tin tức Mạc Tư Khoa
(bản tiếng Pháp là Les nouvelles de Moscou). Chính Nguyễn Bùi Vợi đã kiếm được tờ báo
này để đem khoe với Phùng Quán và tôi!
Lê Đạt vốn không phải người chuyên làm thơ. Anh học
trường Tây, đỗ tú tài Tây, theo cách mạng, trở thành thư ký cho một vị được kể
vào hàng cán bộ
thời kỳ đó. Ai ngờ, đến khi đi theo con đường văn chương, anh lại phát tiết.
Ngày tôi được Nguyễn Bùi Vợi đưa đến nhà Lê Đạt là lúc vợ chồng anh
đang ở nhờ (hay thuê) một khoảng nhỏ trong một căn nhà trên phố Mai Hắc Đế,
cùng với đứa con gái nhỏ mới sinh mấy tháng, cháu Thiên Nhiên (chống công thức
mà!). Tôi hay bế cháu và nhiều lúc để cháu “tè” ra ướt hết. Vợ anh Lê Đạt tên là Thúy, diễn viên kịch nói. Chị
Thúy cùng tuổi với tôi, nhưng “vợ Tiên là Trực chị dâu” nên tôi luôn luôn gọi
là chị, đến khi về già cũng vậy.
Từ phố Mai Hắc Đế, vợ chồng Lê Đạt chuyển đến ở nhờ
nhà Trần Dần tại một phố gần ga Hàng Cỏ, sau đó thì không biết nhờ đâu, hai người
chuyển đến một ngôi nhà khá rộng rãi trên phố Lãn Ông, gần đối diện với ngôi
nhà mà anh chị ở, rồi thêm hai đứa con, cho đến tận sau này.
Sau chỉnh huấn, Lê Đạt bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn,
cùng với Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm… Ở
nhà, bị “treo bút”, những người ấy đâu có ngừng bút. Một hôm, chính Nguyễn Bùi
Vợi chép tay rồi mang lại cho tôi chép vào sổ tay, một bài thơ của Lê Đạt, có
cái tên khá lạ: “Cửa
hàng Lê Đạt”. Không biết theo cách nào, ông Xuân Diệu
cũng có một bản như vậy, để rồi sau đó có một bài viết nặng tay của Xuân Diệu trên báo Văn Nghệ. Rồi Lê Đạt đi “lao động thực tế”, cùng với
những Trần Dần, Phùng Quán…
Dạo đó, mỗi lần từ trường học ở Cầu Giấy về, vì gần chỗ
tôi trú ngụ, lần nào tôi cũng tạt qua chỗ mẹ con chị Thúy. Thỉnh thoảng cũng
ghé thăm chỗ chị vợ anh Trần Dần. Chẳng làm được gì, chỉ đê yên tâm rằng các chị
vẫn khỏe, các cháu vẫn yên bình.
Những năm ở Quảng Bình, hầu như năm nào tôi cũng có ra
Hà Nội. Rồi vào Sài Gòn, thỉnh thoảng cũng có dịp ra Hà Nội, Mỗi dịp ấy, tôi đều
ghé nhà Lê Đạt. Rồi thế nào, sau ngày đó, cháu Uẩn, con út của anh Đạt, cũng đi
sang nhà tôi ở phố
Hàng Gà để nói: “Bố
cháu mời chú sang xơi cơm ạ”.
Thời cả nước cực khổ vì cấm vận và bao cấp, hầu như
tôi không ra Hà Nội được lần nào. Chỉ có một lần, được trường cử đi họp, tôi đi
Hà Nội cùng với anh bạn Tươm Bùi. Nhân một ngày nghỉ, tôi đưa Tươm đến thăm họa
sĩ Bùi Xuân Phái rồi từ đó qua nhà Lê Đạt. Ngồi nghe anh Lê Đạt nói chuyện một lúc, đến lúc trên đường
về, Tươm khâm phục thốt lên: “Bị
đánh đến thế, vùi dập đến thế, mà vẫn ngang tàng khí phách đến thế, thật đúng
sĩ khí Bắc Hà”.
Khi biết tin Lê Đạt mất, tôi không thể nào ra Hà Nội.
Tôi chỉ còn biết một cách là viết nhanh một bài: “Một thời gặp thơ Lê Đạt”.
Đã kể chuyện về Lê Đạt, tôi không thể không kể thêm về
hai người: Trần Dần và Hoàng Cầm.
Nói thật là tôi không thân anh Trần Dần lắm, vì nhà
anh khá xa nên cũng ít khi đến. Bởi vậy, lần này, trước khi rời nhà Lê Đạt, cho
chắc ăn, tôi phải hỏi lại số nhà và tên phố: “Cái phố ấy, cái nhà ấy, thì cậu biết rồi.
Rồi cứ xem có ông nào đang đứng bán sách”.
Hóa ra cái phố ấy, ngôi nhà ấy, tôi nhận ra ngay.
Nhưng cái quầy để bán sách đâu? Cuối cùng, hóa ra chỉ có một cái bàn gỗ cũ con
con, trên đó chỉ mấy quyển sách trẻ con, chắc là rẻ tiền để bán cho trẻ con.
Nhưng nhìn ông già đứng cạnh thì chẳng có vẻ gì là Trần Dần. Tôi định lên tiếng
hỏi: Cụ ơi, xin cho hỏi nhà ông Dần đây phải không ạ? Nhưng chưa kịp hỏi thì
ông già vừa ngẩng mặt lên. Trần Dần đây rồi chứ ai nữa! Cái sẹo ngay giữa cổ ấy,
cái vết sẹo như một dấu ngã hoa mỹ ấy, cái vết sẹo như dấu ấn một thời không thể
quên ấy, chỉ là của Trần Dần thôi!
Còn với Hoàng Cầm thì tôi đã gặp lại hơn một năm trước
đó, chính tại nhà Lê Đạt. Thời gian đó, bạn bè ai cũng biết nhà thơ vừa sáng
tác xong tập thơ mà anh đặt tên “Về
Kinh Bắc”.
Về Kinh Bắc chính là về với quê hương, vùng đất trù phú phía bắc kinh thành
Thăng Long xưa, vùng đất của những cô gái đẹp từng như Chính phi Ỷ Lan (tựa gốc
cây lan), của những hội hè đình đám, đặc biệt là nơi sản sinh ra một dòng dân
ca tuyệt vời: Quan họ Bắc Ninh.
Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm có những bài thơ thật sự là thơ
hay. Lúc này anh không còn làm những bài thơ dài kiểu như bài “Bên kia sông Đuống”, mà là những bài ngắn, mỗi bài trọn vẹn
môt tứ thơ. Nhân vật trữ tình xuyên suốt cả tập thơ là một cô gái Kinh Bắc xinh
đẹp mà nhà thơ yêu như một người tình, nhưng lại cứ gọi là chị, bởi đó là một
người chị họ.
Điều đặc biệt là, mỗi khi chép tặng ai, Hoàng Cầm luôn
luôn chép tặng hai bài, và chỉ hai bài: “Lá
diêu bông”
và “Cổ bài tam cúc”. Có lẽ bởi đó là hai bài anh thích nhất
trong tập thơ. Chữ viết của những bản chép tặng ấy thường là thứ chữ rất đẹp của
Hoàng Cầm, tron trịa, rõ ràng, mà vẫn bay.