Ở ta bây giờ ở đâu cũng có câu lạc bộ thơ. Và vào câu
lạc bộ rồi thì thành nhà thơ. Họ không ăn lương thơ vào ngân sách nhà nước. Họ
có lương hưu. Hoạt động của họ như hội họp, đọc thơ, in thơ… cũng là tiền riêng
của họ.
MỘT NGHỊCH LÝ THƠ
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Từ khi thực thi quốc sách Đổi Mới, văn chương nước ta
đã có những bước phát triển dài… Trong văn chương đã có những tài năng tác giả
và phẩm chất tác phẩm ghi nhận được đặc điểm vừa thần kỳ vừa kỳ quái của một hiện
thực đang rung chuyển, đang làm thay đổi cả cách nghĩ, cách nhận định và cách
hành động của toàn xã hội. Văn chương đã bộc lộ được nhiều sắc thái tâm hồn,
nhiều cung bậc trí tuệ và cũng nhiều mặt nạ.
Dư luận đương
thời, qua ba chục năm vừa qua, coi đó là những thành tựu mang dấu bước đi lên
trong tiến trình phát triển văn học nước nhà… Nhưng có chút nghịch lý trong
tình hình làm thơ và đọc thơ bây giờ. Nghịch lý chỉ một chút thôi nhưng lại cần
tìm giải pháp, một giải pháp đủ tinh tế, để khắc phục.
Quả có một nghịch lý trong giới thơ. Ấy là những người làm thơ ngày một
tăng, và đều được gọi là nhà thơ. Hiện nay số lượng các nhà thơ trong nước ta
phải tính bằng đơn vị vạn và các tập thơ xuất bản hàng năm cũng phải dùng tới
đơn vị nghìn. Tỉ lệ nhà thơ bình quân trên số dân ở ta bây giờ hẳn là lớn nhất
thế giới... Đến chín phần mười, có khi hơn thế, lượng nhà thơ bây giờ là do các
câu lạc bộ thơ cung cấp.
Ở ta bây giờ ở đâu cũng có câu lạc bộ thơ. Và vào câu
lạc bộ rồi thì thành nhà thơ. Họ không ăn lương thơ vào ngân sách nhà nước. Họ
có lương hưu. Hoạt động của họ như hội họp, đọc thơ, in thơ… cũng là tiền riêng
của họ. Làm thơ, với họ, như một cuộc chơi. Câu lạc bộ thơ cũng chỉ là một sân
chơi. Mà chơi trong cõi tinh thần, chơi tình cảm, chơi trí tuệ… Viết một bài
thơ là sống lại một chặng sống của mình, là nghĩ ngợi lại việc đời mà mình đã
trải. Nó như một cuộc tự kiểm điểm về đạo lý, về phép ứng xử...
Bản thân việc ra đời các câu lạc bộ thơ không hề làm tổn hại
thành tựu của nền thơ nước ta. Nhưng số lượng các ấn phẩm thơ xuất hiện trên thị
trường sách thì có ảnh hưởng tới việc tiêu thụ thơ. Hiện nay số tập thơ ấn hành
hàng năm gấp từ 30 đến 40 lần các giai đoạn trước (thí dụ 50 và 1.500 đến
2.000), Công tác biên tập bị coi nhẹ. Thơ chưa đạt chuẩn vẫn đưa ra thị trường
bán chung với các tập “chính phẩm”. Để có được tập thơ đọc được, người đọc phải
vượt qua ba, bốn mươi tập non lép hoặc rất non lép. Ít ai có đủ kiên nhẫn. Thơ
bị ế. Các hiệu sách có sáng kiến: không nhập thơ, không bán thơ nữa. Trừ những
hiệu sách tự làm lấy bản thảo và liên kết với các nhà xuất bản lớn để in và
phát hành.
Như vậy số người làm thơ tăng lên, sách thơ xuất bản
cũng tăng lên, nhưng người đọc thơ lại giảm đi. Giảm chưa từng có. Nhiều bạn hẳn
đã nghe một câu ca dao mới lưu hành thầm trong giới thơ lúc này: “Gặp nhau tay bắt mặt mừng/ Tặng gì thì tặng xin đừng tặng thơ”
Nghĩ cũng tủi cho phận làm thơ. Những tập “đọc được”
thì như đang ngạt thở dưới ba bốn chục tập xoàng che lấp ở phía trên. Đã thế lại
không một chỉ dẫn nào của giới xuất bản hay phát hành giúp cho bạn đọc cách tìm
ra nó.
Ai làm nên nỗi?
Từ xưa, thời chống Pháp chống Mỹ cũng thế. Văn chương
phong trào và văn chương tác giả (tạm gọi thế, chứ giờ đây văn chương nào cũng
có tác giả cả) đều có chức năng và mục đích khác nhau. Không sợ ai chiếm “ghế”
của ai. Thời chống Pháp: Đèo cao thì mặc đèo cao/ Trèo lên đến đỉnh ta cao
hơn đèo. Lục bát mà điệp vần là vụng nhưng người tiêu thụ khi ấy đang cần
cái ý chí mà câu hò này mang lại đến nỗi không ai bận tâm đến cái vần cao lỗi
vận kia.
Còn bây giờ: thơ ông Bảo Sinh: “Vợ là cơm nguội nhà ta/ Nhưng là phở tái
thằng cha láng giềng”. Người
ta chưa kịp bắt bẻ tác giả về tính tư tưởng, về tình đồng bào thì đã phải phá
lên cười vì cái tính hiện thực thẳng thừng, cả hiện thực tâm trạng lẫn hiện thực
xã hội... Khái quát được tình hình thương nghiệp thời bao cấp tem phiếu, sắc sảo
nhất có lẽ là mấy câu vô danh này: “Tôn
Đản là chợ của quan/ Nhà Thờ chợ của trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân chợ của
thương nhân/ Vỉa hè chợ của nhân dân anh hung”.
Đáng tiếc là cái mạch thơ xốc vác vốn có của thơ phong
trào ấy lại bị bỏ qua. Nhưng dù thế, dù thơ có chưa hay hoặc chưa nhiều bài hay
thì cũng không hại gì cho cả nền thơ. Chỉ có hại khi nó được dễ dãi in ra
và trộn lẫn thứ phẩm vào chính phẩm để phát hành. Nhưng việc này lại thuộc
quyền quản lý của ngành xuất bản và phát hành. Việc ấy cần giải quyết và có thể
giải quyết được. Nhiều nước kinh tế thị trường đã có nhiều sáng kiến điều chỉnh
giá sách theo chất lượng tác phẩm rất uyển chuyển và hữu hiệu, có tác động
khích lệ tích cực tới chất lượng văn chương, ta rất nên áp dụng.
Sau khi bỏ nghề y sang làm thơ, tôi có tới hơn 12 năm
liền (1972-1984) làm biên tập ở buổi Tiếng Thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi ấy
truyền hình mới phát thể nghiệm, Tiếng nói Việt Nam là kênh thông tin gần người
dân nhất. Buổi Tiếng Thơ cũng là một trong các buổi nhận được nhiều thư bạn
nghe Đài. Thư trao đổi, nhận xét không nhiều nhưng thơ sáng tác gửi về thì nhiều
lắm. Phần lớn chưa dùng được nhưng tấm lòng của bà con mong muốn chuyện của
làng mình, buồn vui của lòng mình được Đài chuyển tới mọi người, thì anh em
biên tập viên chúng tôi ai cũng nhận ra, ai cũng xúc động.
Chúng tôi nhận ra lòng trông cậy vào thơ của bà con
ta, để được an ủi, được bảo vệ, được chia sẻ trước những cảnh ngộ thương xót hoặc
niềm tự hào. Tôi đã có nhiều cuộc nói chuyện thơ với bà con ở mọi địa phương
trong nước và các cộng đồng bà con ta ở nước ngoài, có cuộc tình cờ mà thành.
Có cuộc do sở văn hóa hay thư viện tỉnh tổ chức nói liền nhiều ngày ở nhiều địa
điểm của địa phương. Có buổi bà con phải chân trần lội bùn đường rừng mà vào. Hội
trường ngoài trời, rộng, ghế gỗ dài gắn trên ván dốc lên cao dần. Thế rồi bùn ướt
cứ tự nhiên mà thành bùn khô trên chân người yêu thơ… Tiếng cười tiếng vỗ tay
càng khuya càng nồng nhiệt. Diễn viên ngâm thơ, diễn viên đàn sáo và cả người
nói, say tình cử tọa, nói diễn như nhập đồng.
Chính trong bối cảnh mê say đó đã nảy sinh những kiểu
sinh hoạt thơ do bà con yêu thơ tự tạo. Từ khi có quốc sách Đổi Mới thì hình
thành phong trào câu lạc bộ
thơ khắp nơi, trong mọi tầng lớp nhân dân, có đóng rất lớn về sinh hoạt văn hóa
đại chúng. Bỏ qua những dị biệt chi tiết, có thể nhận ra ba chặng phát triển
chung của các câu lạc bộ
thơ.
Chặng một,
thiên
về tìm hiểu để hưởng thụ cái hay cái đẹp, cái ý nghĩa thâm thúy của thơ. Đây là
chặng nâng cao năng lực thẩm mỹ của bạn đọc, tạo tiền đề cho thơ phát triển. Chặng
này đã khai sinh ra tuần báo Thơ của Hội nhà văn Việt Nam.
Chặng hai, những
độc giả cần mẫn của thơ bỗng thích thành tác giả. Số lượng thơ xuất bản tăng
chóng mặt. Xuất hiện các dịch vụ làm sách; biên tập, chọn bài, trình bày, làm
tuyền và các loại hội thảo… Vui nhưng hơi tốn. Cũng đã thấy mấy ông ranh ma kiếm
chác: có ông tự khoe Phật nhập vào bút mình nên thơ đâm hay quá Hội Nhà văn phải
hội thảo và ông phải vất vả để gửi thi Nobel. Gần đây không biết công ty du lịch
nào lại phởn chí phong một lão bà là “nhà thơ thế giới” với rất nhiều chức danh
thuộc ngành câu lạc bộ
năm châu (!) Sau các buổi giới thiệu tác phẩm tưng bừng thì các hiệu sách lại từ
chối nhận bán thơ, tạo nên cái nghịch lý mà ta đang bàn cách tháo gỡ.
Chặng ba: Không biết từ lúc nào, các hội viên câu lạc bộ lại chuyển cảm hứng xin
vào các Hội nhà văn (Hội các tỉnh, thành và hội toàn quốc). Số đơn xin gia nhập
Hội Nhà văn Việt Nam cuối năm 2022 là hơn chín trăm. Có bạn tuyên bố: Sẽ vào Hội
bằng bất kỳ giá nào (!). Cái sức ép “bất kỳ giá nào” ấy không hứa hẹn cho thịnh
vượng văn chương lắm. Rất cần các quý hội nhà văn ta tìm ra quy chế kết nạp thỏa
đáng, phù hợp với thực chất phát triển của nghề mình.
Tách bạch chỗ tiến chỗ lùi của phong trào câu lạc bộ thơ qua mỗi chặng không
dễ. Có chỗ hăng tiến quá lại hóa lùi. Mà có khi điềm đạm lùi lại hóa tiến. Nghề
này vừa phải say lại vừa phải tỉnh. Say quá hóa buồn cười mà tỉnh quá thì hết
văn chương. Có mỗi việc ấy là khó thôi. Còn thì nhờ trời cho.